Ngày 09-05-2025
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:35 09/05/2025

121. Khi vui vẻ thì con người thường cám ơn Thiên Chúa, nhưng khi gặp đau khổ thì chỉ có người công chính mới biết cảm tạ. Khi đau khổ mà tự trong lòng nói một câu cảm tạ Thiên Chúa, thì càng làm cho Thiên Chúa ưa thích hơn là nói cả vạn câu cám ơn khi vui vẻ.

(Thánh John Vianney)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"


--------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:38 09/05/2025
37. MỘT CON KHỈ SAY

Có người mua một con khỉ, đem áo cho nó mặc và đem mũ cho nó đội, lại còn dạy nó quỳ bái trong các dịp lễ tết, mọi thứ đều rất giống người.

Một hôm, chủ nhân mở tiệc đãi khách, kêu con khi ra biểu diễn hành lễ, mọi người đều cảm thấy nó rất dễ thương.

Có một khách lấy rượu thưởng cho nó, nó uống cho đến khi say tí bỉ, vứt cả mũ áo bò lăn khắp nơi. Mọi người cười lớn, nói:

- “Con khỉ này khi chưa uống rượu thì rất giống người, nào ngờ mới uống chút rượu thì không giống người nữa.”

(Tiếu Đắc Hảo)

Suy tư 37:

Khỉ mặc áo, khỉ đội mũ, khỉ làm trò, khỉ uống rượu giống như người nhưng không phải là người, nên khi khỉ say thì khỉ hoàn khỉ, bởi vì nó đã lột những cái giống người vứt xuống đất và tánh khỉ…lòi ra.

Người độc ác mưu mô thâm hiểm nổi tiếng mà đột nhiên lại đổi tính nết hiền lành, khiêm nhượng, nói năng nhỏ nhẹ thì hãy coi chừng, tránh họ càng xa càng tốt, bởi vì họ đang “khoác” trên mình cái áo khiêm nhường, cái mũ hiền lành của con người vốn bản thiện giống như người thánh thiện, nhưng khi uống đã say (đạt mục đích của mình) thì quăng vứt cái mũ hiền lành, cái áo khiêm nhường xuống đất và tác oai tác quái gấp bội hơn trước…

Khỉ vẫn là khỉ dù nó có thông minh cực kỳ, người ác độc thâm hiểm thì vẫn là người ác độc dù họ có nói lời nhẹ nhàng, hiền lành chăng nữa, nếu họ không được Lời Chúa tác động…

Không thể nào biển đổi người khác nếu không biến đổi mình trước, và sẽ không có chuyện người ác biến thành người lành nếu không có sự thống hối và quyết tâm, gương sáng của người khác và tiếng Chúa thúc giục trong lương tâm…

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hamebus Papam: Tân Giáo Hoàng Lêo XIV
Nguyễn Trung Tây
00:38 09/05/2025
Hamebus Papam: Tân Giáo Hoàng Lêo XIV
Nguyễn Trung Tây


Đức Tân Giáo Hoàng Lêo XIV, trong những phát biểu đầu tiên sau khi được bầu làm người kế vị Thánh Phêrô, đã một lần nữa mạnh mẽ khẳng định căn tính đích thực và sứ mạng không thể thay đổi của Giáo Hội, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội và văn hóa đầy biến động, bất ổn và phân hóa sâu sắc của thế giới hôm nay,

— Chúng ta phải cùng nhau tìm cách trở thành một Giáo hội truyền giáo, xây dựng những cây cầu, đối thoại, luôn mở rộng vòng tay đón nhận mọi người.

Giáo Hội Truyền Giáo: Trước những thách đố của thời đại, từ khủng hoảng môi trường, bất bình đẳng kinh tế, xung đột xã hội, cho đến hiện tượng tục hóa ngày càng gia tăng, ngài đã kêu gọi toàn thể dân Chúa hãy trở về với căn tính nguyên thủy của Giáo Hội, đồng thời can đảm tái khám phá ơn gọi làm muối men cho trần gian.

Câu tuyên bố của ngài cũng khẳng định Giáo Hội không thể và không được phép trở thành một tổ chức khép kín, tự bảo vệ mình trong những bức tường an toàn của cơ cấu, nghi thức, hay đặc quyền. Trái lại, Giáo Hội phải luôn mang trong mình tâm thế của một người lữ hành truyền giáo, luôn trong tư thế “ra đi,” ra khỏi chính mình, ra khỏi não trạng tiện nghi, ra khỏi thái độ tự mãn thiêng liêng, để dấn thân bước vào những thực tại khó khăn, hỗn độn, và đầy thách đố của thế giới.

Sự “ra đi” mà Đức Tân Giáo Hoàng nói đến không chỉ là một chuyển động vật lý, nhưng là một hành trình nội tâm, một cuộc hoán cải thiêng liêng, trong đó mỗi thành phần của Giáo Hội, từ giáo dân đến giáo sĩ, đều được mời gọi bước ra khỏi cái tôi ích kỷ, để mở lòng trước nỗi đau, khát vọng và nhu cầu thiêng liêng của nhân loại hôm nay. Những “vùng ngoại biên” mà ngài nhắc tới không chỉ là những nơi nghèo đói về vật chất, mà còn là những biên giới văn hóa, xã hội, tâm linh, nơi có những con người bị tổn thương, bị loại trừ, và đang khao khát một tình yêu cứu độ, khao khát một ánh sáng soi đường, khao khát một niềm hy vọng đích thực. Đó chính là niềm vui Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng đã chết, nhưng phục sinh.

Giáo Hội, theo tầm nhìn của Đức Lêo XIV, phải là một Giáo Hội đi ra để gặp gỡ, để phục vụ và để đồng hành với những người đang sống trong hoàn cảnh bị lãng quên, bị bên lề hóa. Chỉ khi nào Giáo Hội dám ra đi như Đức Kitô đã ra đi, từ trời xuống thế, từ an toàn đến hiểm nguy, từ cao sang đến nghèo khó, thì Giáo Hội mới thực sự sống đúng căn tính của mình. Nói một cách khác, Giáo Hội phải là dấu chỉ sống động và công cụ hiệu quả của lòng thương xót Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.

Hồng Y Robert Prevost: Đời sống của Hồng Y Robert Prevost, tu sĩ dòng Augustinô, thực sự là biểu tượng rõ nét và đầy sức thuyết phục về chiều kích truyền giáo của Giáo Hội trong thế kỷ XXI. Trong một thế giới đang ngày càng toàn cầu hóa nhưng cũng đầy chia rẽ, ngài thể hiện một lối sống Tin Mừng cụ thể, âm thầm nhưng mạnh mẽ, trở thành mẫu gương cho một Giáo Hội biết vượt qua biên giới văn hóa, ngôn ngữ, và cả căn tính quốc gia để yêu thương và phục vụ như Đức Kitô đã yêu và phục vụ.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình di dân tại Hoa Kỳ, cậu thanh niên Robert Prevost không thể không cảm nghiệm được sự mong manh, bấp bênh và khát vọng hội nhập của những người di dân hoặc những người sống bên lề xã hội. Hoàn cảnh di dân của gia đình ngài đã trở thành nền tảng cho một ơn gọi đặc biệt: ơn gọi bước ra khỏi chính mình để đến với người khác, nhất là những ai bị bỏ rơi và quên lãng. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài lên đường, đến với đất nước Peru, một nơi xa lạ về ngôn ngữ, văn hóa và khí hậu, để dấn thân trong sứ mạng loan báo Tin Mừng.

Sự hiện diện của ngài tại Peru không phải chỉ là một cuộc viếng thăm ngắn hạn hay một sứ vụ tạm thời, mà là một hành trình gắn bó sâu xa và trọn vẹn. Trong suốt nhiều năm sống giữa những cộng đoàn nghèo khổ, những người bị lãng quên ở nông thôn Peru, ngài không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng sự hiện diện yêu thương, sự sẻ chia không điều kiện, và đời sống gương mẫu đậm chất Phúc Âm. Ngài học tiếng Tây Ban Nha, tìm hiểu văn hóa bản địa, sống như một người con của đất nước ấy. Không chỉ về mặt pháp lý khi nhập quốc tịch Peru, mà sâu xa hơn, trong tâm hồn, ngài đã trở thành người Peru, mang trong mình nỗi đau và niềm hy vọng của dân tộc ấy.

Tình yêu và sự dấn thân truyền giáo của Đức Hồng Y Prevost không phải là kết quả của lý thuyết hay lý tưởng, mà là hoa trái của một đời sống bước chân theo Đức Giêsu Truyền Giáo. Chính điều này làm nổi bật một chiều kích quan trọng mà Đức Tân Giáo Hoàng Lêo XIV cũng nhấn mạnh: Giáo Hội truyền giáo không thể chỉ dừng lại ở những chương trình hay chiến lược, mà phải được khơi nguồn từ sự hoán cải và lòng thương xót. Đó là thứ truyền giáo “bằng con tim,” bằng cuộc sống nhập thể, và bằng tình yêu trọn vẹn, tương tự như Đức Kitô đã sống và yêu cho đến giây phút cuối trên cây thập tự.

Tông Hiệu Lêo XIV: Việc chọn tông hiệu “Lêo XIV” của Đức Tân Giáo Hoàng không hề là điều ngẫu nhiên hay mang tính biểu tượng đơn thuần, nhưng là một lựa chọn đầy ý nghĩa và chiều sâu, hàm chứa một định hướng mục vụ rõ ràng cho triều đại giáo hoàng của ngài. Tông hiệu Lêo XIV gợi nhớ đến hình ảnh uyên bác, can đảm và cải cách của Đức Giáo Hoàng Lêo XIII. Vị giáo hoàng tiên phong đã khai mở con đường cho nền thần học xã hội hiện đại qua thông điệp lịch sử Rerum Novarum (1891), vốn được xem là viên đá nền đầu tiên của Học thuyết Xã hội Công Giáo.

Bằng việc phục hồi tông hiệu “Lêo,” Đức Tân Giáo Hoàng cho thấy ý định rõ ràng là tiếp nối và làm mới lại sứ mạng xã hội của Giáo Hội giữa lòng một thế giới đang bị phân hóa bởi bất công, nghèo đói, và chiến tranh. Ngài muốn nhấn mạnh rằng Giáo Hội không thể đứng bên lề các vấn đề cấp bách của thời đại, nhưng phải là một tiếng nói tiên tri cho công lý và hòa bình, là nơi nương náu cho người nghèo, người di dân, người bị loại trừ, đúng như tinh thần mà Lêo XIII đã nêu cao trong thời đại công nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ vào cuối thế kỷ XIX.

Chọn tông hiệu này cũng là một lời mời gọi của Tân Giáo Hoàng tới Giáo Hội toàn cầu. Đó là, hãy bước ra khỏi thái độ thụ động hay chỉ chăm lo cho nội bộ, để can đảm dấn thân vào các cuộc khủng hoảng của thế giới hôm nay, từ biến đổi khí hậu, chênh lệch giàu nghèo, đến tình trạng mất phương hướng của con người trong kỷ nguyên công nghệ và tiêu dùng. Đây chính là một sự tiếp nối sống động tinh thần của thông điệp Evangelii Gaudium của Đức Phanxicô, trong đó nhấn mạnh đến một “Giáo Hội biết đi ra,” một Giáo Hội nghèo vì người nghèo.

Tông hiệu “Lêo XIV” không chỉ là sự hồi tưởng về một triều đại quá khứ, mà là một lời tuyên bố tiên tri cho hiện tại và tương lai. Giáo Hội thế kỷ XXI phải can đảm làm muối và ánh sáng giữa trần gian, trung thành với Tin Mừng và đồng hành với nhân loại trong mọi bước thăng trầm.

Hồng Y Đoàn: Chỉ trong vòng hai ngày, một thời gian ngắn, Hồng Y đoàn đã bày tỏ sự đồng thuận trong việc chọn lựa người kế vị Thánh Phêrô. Đây chính là một lời xác quyết tập thể rằng: đã đến lúc Giáo Hội phải bước ra khỏi sự an toàn, từ bỏ những hình thức quyền lực trần thế vốn từng gây nên không ít tổn thương và khép kín, để trở về với căn tính đích thực của mình. Đó là một Giáo Hội của sứ vụ truyền giáo, của lòng thương xót, và của sự hiện diện khiêm tốn giữa những người bị lãng quên.

Giáo Hội ấy được kêu gọi sống theo gương của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã “trở nên xác phàm, cư ngụ và đồng hành giữa chúng ta” (Gioan 1:14). Ngôi Lời đã không chọn ở lại trên trời trong vinh quang, nhưng đã bước xuống, mang lấy thân phận con người (Philippians 2:6-7), để sống gần gũi với người nghèo, người bệnh tật, người bị xã hội ruồng bỏ. Đức Giêsu đã mở ra một thời kỳ mới, “Năm Hồng Ân của Thiên Chúa” (Luca 4:18-19), nơi mà lòng thương xót, sự tha thứ và công lý được trao ban cách nhưng không cho những ai bị loại trừ khỏi cộng đồng xã hội hay tôn giáo.

Quá trình ngắn chọn lựa Tân Giáo Hoàng của Hồng Y đoàn, và qua sự lựa chọn tông hiệu, phát biểu đầu tiên của Tân Giáo Hoàng Lêo XIV, cả hai điều này đang mạnh mẽ công bố tới thế giới và tín hữu Kitô toàn cầu rằng: Giáo Hội hôm nay phải trở nên một Giáo Hội lên đường, không sợ bị vấy bẩn bởi những thực tại của thế giới, nhưng can đảm hiện diện trong đó như men, như muối và như ánh sáng (Matt 5:13-16).

 
Khuôn mặt tiếng người chăn chiên
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
02:34 09/05/2025
Khuôn mặt tiếng người chăn chiên

Trong đời sống nhất là vùng có đồng cỏ xanh non cùng suối vũng nước, thường xuất hiện đàn xúc vật chiên cừu. Chúng được một hai người chăn cầm gậy dẫn lùa đi, và có vài con chó chạy sủa hai bên cạnh, ở đầu đàn và cuối đàn. Những con chó chạy theo sủa vang trời có nhiệm vụ canh giữ bảo vệ đàn xúc vật theo chỉ dẫn của người chăn đàn, đi gọn theo đúng hướng, chiến đấu săn xua đuổi thú dữ lăm le tấn công chiên cừu.

Những con vật chiên cừu ngoan ngoãn đi theo sự hướng dẫn của người chăn chiên và tiếng chó sủa sn lùa không cho đi ra khỏi đàn. Chúng theo trực gíac nghe nhận ra tiếng quát bảo của người chăn nuôi chúng, và của những con chó đi theo chúng.

Những con vật trong đàn chiên cừu không nghe theo tiếng hiệu lệnh của người khác, của những con vật khác, mà chỉ những tiếng nói chúng đã quen thuộc nhận ra. Vì người chăn nuôi chúng và những con chó hằng đi theo canh giữ bảo vệ chúng ngày đêm.

Một em bé từ khi mở mắt chào đời, chưa biết nói, mắt nhìn chưa rõ, tâm trí em chưa có thể suy hiểu. Nhưng em nhận ra tiếng nói mẹ cha em, khi họ gọi nói gì với em. Tình yêu và sự gần gũi của cha mẹ luôn sát cạnh bên em đã mang lại cho em sự an toàn tin tưởng, tạo nên thói quen cho nhịp sống, và điều đó khắc ghi vào tâm trí, vào bản năng trực giác của em.

Mối tương quan tuy là sợi giây vô hình. Nhưng lại có sức truyền đi tín hiệu rất mạnh cùng hiệu qủa tốt đẹp tuyệt vời.

Vào thời Chúa Jesu Kitô rao giảng nước tình yêu Thiên Chúa, cách đây hơn hai ngàn năm bên xã hội vùng Trung Đông, nghề chăn nuôi chiên cừu từng bầy đàn có chỗ đứng địa vị quan trọng. Chính vì thế, Chúa Jesu đã lấy hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên vào bài gỉang giáo lý, Ngài nói: Chiên của tôi, nghe biết tiếng tôi!

Vì sao chúng ta những người tín hữu Chúa Kito, chúng ta những người tín hữu Chúa vẫn còn nghe những Lời, tiếng Chúa được rầng Chúa Giêsu đã nói như vậy?

Những con thú vật đàn chiên cừu nghe nhận ra tiếng nói của người chăn dắt săn sóc chúng luôn hằng đi theo sát bên cạnh chúng qua mọi đồng cỏ vũng nước cùng lúc nghỉ ngơi. Cũng vậy các Tông đồ ( 12 vị) đầu tiên được Chúa kêu ngọi tuyển chọn, suốt ba năm trời hằng đi theo Chúa nghe và nhìn xem Ngài giảng dạy giáo lý. Ba năm trời Thầy trò sống bên nhau, họ nhận biết tiếng của Ngài và gìn giữ Lời Ngài trong tâm hồn. Sau khi Chúa Giesu chịu chết và trở về trời, các Tông đồ theo mệnh lệnh của Chúa ra đi rao giảng làm chứng cho Ngài trong dòng sông đời sống xã hội. Các ngài nhớ lại hoặc viết ra thành văn bản sách Kinh Thánh, hoặc bằng lời nói rao giảng những điều đã nghe, đã học hỏi nơi Chúa Giêsu khi xưa.

Chính vì thế, ngày nay Giáo hội Chúa ở trần gian, chúng ta những người tín hữu Chúa Kito cũng vẫn có thể nghe được tiếng, được lời của Chúa: Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".( Ga 10,27-30).

Có thắc mắc : Chúa Giêsu làm gì cho chúng ta, vì chúng ta ngày nay không thể nhìn thấy Ngài bằng con mắt chúng ta?

Một câu chuyện dụ ngôn ngắn giúp cắt nghĩ cho thắc mắc này: Câu chuyện đối thoại giữa con chó và con chiên cừu.

“ Có chuyện kể thuật lại vào thời xa xưa lúc những con thú vật còn có thể nói chuyện thông thương với nhau. Chú chiên cừu nói với chủ nuôi nó: Ông đối xử không đúng. Ông biết không, ông nuôi dưỡng chúng tôi từ lúc còn nhỏ. Nhưng khi trưởng thành khôn lớn chúng tôi là nguồn mang lại lợi nhuận kinh tế cho ông rất nhiều: lông làm vải may mặc, sữa, Phómát, Bơ, thịt, và sinh sản đẻ tặng cho ông những con chiên con, làm cho đàn xúc vật của ông càng ngày càng thịnh vượng lớn thêm, không bị gián đoạn… Thật là tuyệt vời. Chúng tôi phải cật lực hằng ngày, cúi đầu xuống tận mặt đất tự mình kiếm thức ăn gặm cỏ mà sinh sống…Còn chú Chó không mang gì như thế cho ông, mà ông lại cho nó thức ăn ngon từ nhà bếp, từ bàn ăn của ông…

Khi chú Chó nghe thấy thế liền chen vào: Dạ phải rồi, khi các bạn ra đồng thư thả ăn gặm cỏ, thì tôi phải chạy tới lui cất tiếng sủa vang trời kêu gọi canh gác gìn giữ các bạn. Như thế các bạn có an ninh không bị chó sói, thú dữ đến tấn công làm các bạn bị thương chẩy máu, hay bị chúng ăn thịt giết chết lôi mang đi... Tôi có thể nói với các Bạn, nếu tôi mà không canh chừng các Bạn, các Bạn sẽ không có thề thư thả an toàn mà gặm cỏ được đâu.

Nghe chú Chó biện mình có tâm có lý, các chú chiên cừu thấy thật là thuyết phục, và im lặng để cho chú Chó có được vị trí địa vị ưu tiên trước họ.”

Cũng vậy chúng ta cũng được phép hiểu theo ý nghĩa tâm linh tinh thần về Chúa Giesu Kitô: Dù chúng ta không nhìn thấy Ngài bằng con mắt mình, nhưng Ngài hằng theo dõi chăm sóc cho đời sống tinh thần tâm linh chúng ta còn nhiều hơn chú chó canh giữ đàn chiên cừu.

Vì thế Ngài nói: Ta là người chăn chiên tốt lành. Chiên của ta biết Ta và nghe theo tiếng Ta.

“Chúa lo chăn dắt đời con,
Đâu còn thiếu thốn, đâu còn sợ chi!” ( Tv 23,1)

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long