1. Các giám mục Nigeria lên án vụ thảm sát 200 tín hữu tại Bang Benue
Các giám mục thuộc nhiều Giáo tỉnh ở Nigeria đã lên án cuộc thảm sát khoảng 200 người tại Tỉnh Gouma, Bang Benue trong đêm 13 rạng 14 tháng Sáu vừa qua.
Trong thông cáo công bố hôm thứ Tư, ngày 18 tháng Sáu, các giám mục thuộc Giáo tỉnh Onitsha sở tại đã mạnh mẽ lên án vụ này. Các nạn nhân phần lớn là những người di tản được đón tiếp trong một giáo điểm Công Giáo địa phương.
Ngày 15 tháng Sáu cũng xảy ra một cuộc tấn công tương tự ở Eha-Amufu, Bang Enugo. Hầu như hằng ngày đều có những vụ đổ máu như thế ở Nigeria.
Thông cáo của các giám mục viết: “Chúng tôi hết sức kinh hoàng vì những cuộc đổ máu tàn bạo chống những người vô tội như thế. Chúng tôi yêu cầu chính quyền hãy có những biện pháp bảo vệ các công dân”.
Các giám mục đã tuyên bố dành ngày thứ Sáu, 20 tháng Sáu làm ngày cầu nguyện và ăn chay để cầu cho hòa bình tại những bang bị nạn, và cho những vùng khác đang chịu nạn bạo lực.
Về phần Đức Tổng Giám Mục Alfred Adewale Martin của Tổng Giáo phận Lagos, ngài tuyên bố dành Chúa nhật ngày 22 tháng Sáu này làm ngày cầu nguyện cho hòa bình, đồng thời phản đối những vụ sát hại. Đức Tổng Giám Mục yêu cầu tất cả các linh mục trong giáo phận cử hành thánh lẽ Chúa nhật theo ý nguyện vừa nói. Đó là cách thức biểu lộ sự phẫn nộ một cách ôn hòa và là tiếng kêu đối với chính quyền, về tinh thần trách nhiệm. Đức Tổng Giám Mục nói: “Trái đất đau thương, đang hút máu vô tội”.
Theo tổ chức bác ái “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, trong các cuộc xung đột trên đây có pha trộn các yếu tố tôn giáo, chủng tộc và việc sử dụng đất đai. Từ nhiều tuần nay, có một làn sóng bách hại, tấn công các làng Kitô trong vùng, do những người Fulani Hồi giáo chủ trương. Họ làm nghề chăn nuôi và thường đi chiếm đất để chăn nuôi đoàn vật của họ.
Cũng nên nhắc lại rằng trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật, ngày 15 tháng Sáu vừa qua, Đức Thánh Cha Lêô cũng đã lên án vụ thảm sát kinh khủng ở Yelwatqa và nói rằng: Tôi cầu nguyện để an ninh, công lý và hòa bình hiển trị tại Nigeria, quốc gia yêu quý và bị nhiều hình thức bạo lực. Và tôi cầu nguyện đặc biệt cho các cộng đồng Kitô ở nông thôn Bang Benue không ngừng bị nạn bạo lực”.
2. Giám hạt Opus Dei đệ trình dự thảo quy chế mới lên Tòa Thánh
Hôm 13 tháng Sáu vừa qua, Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei, Đức ông Fernando Ocáriz, đã đệ trình dự thảo chung kết lên Tòa Thánh, và Bộ Giáo sĩ sẽ cứu xét.
Opus Dei, có nghĩa là “Công việc của Thiên Chúa” được thánh Josémaria Esquiva de Balaguer, hay 1902-1975, người Tây Ban Nha thành lập năm 1928, như một phong trào giáo dân, chủ trương nên thánh trong công việc hằng ngày, và xây dựng xã hội qua đời sống Kitô.
Năm 1982, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cấp cho Opus Dei quy chế “Giám hạt tòng nhân”, phần nào giống như một giáo phận không có lãnh thổ, và trực thuộc Bộ Giám mục. Về sau, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thu hồi một phần quy chế này, qua sự thay đổi giáo luật và đặt giám hạt trực thuộc Bộ Giáo sĩ, đồng thời quyết định bề trên Giám hạt chỉ là một Giám Mục hay là “Đức ông”. Hôm 14 tháng Năm vừa qua, tức là một tuần sau khi được bầu làm Giáo hoàng, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tiếp kiến Đức ông Fernando Ocáriz đến trình bày cho ngài về chương trình canh tân quy chế của Giám hạt, đã tiến hành từ năm 2022.
Hiện nay, Giám hạt Opus Dei hoạt động tại 68 quốc gia, và có 94.450 thành viên, trong đó 98% là giáo dân: 60% là nữ giới và 40% là nam giới. 74% là những người có gia đình và 26% độc thân và 2% là linh mục, tức là gần 2.000 vị.
Trong một bài đăng trên CrisisMagazine, truyền đi hôm 20 tháng Sáu vừa qua, tác giả Austin Ruse, một giáo dân có gia đình, thành viên của Giám hạt này, viết rằng Đức Giáo Hoàng Lêô XIV biết rất rõ Opus Dei. Hai giám mục tiền nhiệm trong giáo phận của ngài ở Peru đều xuất thân từ Opus Dei. Các vị đã thành lập chủng viện trong Giáo phận Chiclayo này. Còn Đức Thánh Cha Lêô, khi còn là giám mục địa phương, hằng năm, ngài vẫn chủ lễ kính thánh Escrivà de Balaguer, vị sáng lập Opus Dei và hai linh mục thư ký của ngài cũng có liên hệ đặc biệt với Opus Dei.
3. Diễn từ của Đức Thánh Cha Lêô XIV Trong Ngày Năm Thánh Dành Cho Các Giám Mục
Nhân danh Cha, và Con và và Thánh Thần. Bình an ở cùng anh em!
Anh em thân mến, chào buổi sáng và chào mừng!
Tôi vô cùng trân trọng những nỗ lực mà tất cả anh em đã thực hiện để hành hương đến Rôma, vì tôi nhận ra những đòi hỏi cấp bách của thừa tác vụ của anh em. Tuy nhiên, mỗi người trong anh em, giống như tôi, trước khi trở thành người chăn chiên, là một con chiên, một thành viên trong đàn chiên của Chúa. Vì vậy, chúng ta cũng vậy, thậm chí trước những người khác, được yêu cầu bước qua Cửa Thánh, biểu tượng của Chúa Kitô Cứu Thế. Nếu chúng ta muốn lãnh đạo các Giáo hội được giao phó cho chúng ta chăm sóc, chúng ta phải để bản thân được đổi mới sâu sắc bởi Chúa Giêsu, Mục tử nhân lành, để chúng ta hoàn toàn phù hợp với trái tim của Người và với mầu nhiệm tình yêu của Người.
“Spes non confundit,” “Hy vọng không làm chúng ta thất vọng” (Rm 5:5). Chúng ta đã nghe Đức Giáo Hoàng Phanxicô lặp lại những lời này của Thánh Phaolô bao nhiêu lần! Chúng đã trở thành một trong những câu nói đặc trưng của ngài, đến nỗi ngài đã chọn chúng làm lời mở đầu cho Sắc lệnh công bố Năm Thánh này.
Là các Giám mục, chúng ta là những người thừa kế chính của di sản tiên tri đó, mà chúng ta phải bảo tồn và truyền lại cho dân Chúa bằng lời nói và cách sống của mình. Đôi khi, rao giảng sứ điệp rằng hy vọng không làm chúng ta thất vọng có nghĩa là bơi ngược dòng, ngay cả trong một số tình huống đau đớn dường như vô vọng. Tuy nhiên, chính vào những lúc đó, chúng ta càng thấy rõ hơn rằng đức tin và hy vọng của chúng ta không đến từ chính chúng ta, mà đến từ Thiên Chúa. Nếu chúng ta thực sự gần gũi với những người đau khổ, thì Chúa Thánh Thần có thể làm sống lại trong lòng họ ngay cả ngọn lửa đã tắt hẳn (x. Tông huấn Spes Non Confundit, 3).
Các bạn thân mến, một Giám mục là chứng nhân của hy vọng bằng tấm gương của một cuộc sống vững vàng trong Thiên Chúa và hoàn toàn tận tụy phục vụ Giáo hội. Điều này chỉ đúng khi ngài đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cuộc sống bản thân và trong thừa tác vụ tông đồ của mình. Thánh Thần của Chúa sau đó sẽ định hình cách suy nghĩ, cảm xúc và hành động của ngài. Chúng ta hãy dừng lại một chút và cùng nhau xem xét một vài khía cạnh của chứng tá này.
Trước hết, Giám mục là nguyên lý hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo hội đặc thù được giao phó cho ngài. Ngài có nhiệm vụ xây dựng sự hiệp thông giữa các thành viên của mình và với Giáo hội hoàn vũ bằng cách nuôi dưỡng sự đa dạng của các ân sủng và thừa tác vụ được ban cho để phát triển chính mình và để truyền bá Tin Mừng. Trong thừa tác vụ này, cũng như trong toàn bộ sứ mệnh của mình, Giám mục có thể trông cậy vào ân sủng Thiên Chúa đặc biệt được ban cho ngài khi ngài được tấn phong giám mục. Ân sủng này nâng đỡ ngài như một người dạy đức tin, một thừa tác viên thánh hóa và một nhà lãnh đạo tinh thần; nó củng cố cam kết của ngài đối với Vương quốc Thiên Chúa, đối với sự cứu rỗi vĩnh cửu của các linh hồn và đối với sự biến đổi lịch sử bằng sức mạnh của Tin mừng.
Khía cạnh thứ hai mà tôi muốn xem xét, một lần nữa dưới ánh sáng của Chúa Kitô như là mô hình của cuộc sống của Giám mục, có thể được diễn đạt theo cách này: Giám mục là một người sống cuộc sống đối thần. Nói một cách ngắn gọn, ngài là một người hoàn toàn ngoan ngoãn với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng lấp đầy ngài bằng đức tin, hy vọng và lòng bác ái, và thổi bùng chúng giữa những tình huống và thách thức khác nhau của cuộc sống hàng ngày.
Do đó, Giám mục là một người có đức tin. Ở đây, tôi nghĩ đến đoạn văn tuyệt vời trong Thư gửi tín hữu Do Thái (x. Dt 11), trong đó tác giả liệt kê toàn bộ gia phả của “những chứng nhân” của đức tin, bắt đầu từ Abel. Tôi nghĩ cụ thể đến Moses, người được Chúa gọi để dẫn dắt dân đến miền đất hứa, và người mà chúng ta được biết là “vẫn kiên định, như thể nhìn thấy Đấng vô hình” (Dt 11:27). Ở đây chúng ta có một bức chân dung tuyệt vời về một người có đức tin: ông là người, nhờ ân sủng của Chúa, nhìn thấy trước, thoáng thấy mục tiêu và kiên trì trong thời gian thử thách. Hãy nghĩ đến tất cả những lần Moses cầu bầu cho dân trước mặt Chúa. Tương tự như vậy, Giám mục trong Giáo hội của mình đóng vai trò là người cầu bầu, bởi vì Chúa Thánh Thần giữ cho ngọn lửa đức tin luôn cháy sáng trong trái tim ngài.
Sau đó, Giám mục cũng là một người của đức cậy, vì “đức tin là sự bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11:1). Đặc biệt là vào những lúc khó khăn trong cuộc sống của mọi người, Giám mục, bằng nhân đức đới thần này, giúp họ không tuyệt vọng: không chỉ bằng lời nói mà còn bằng sự gần gũi của mình. Khi các gia đình phải chịu nhiều gánh nặng và các tổ chức công không cung cấp đủ sự hỗ trợ; khi những người trẻ tuổi vỡ mộng và chán ngán những lời hứa suông; khi người già và những người khuyết tật nghiêm trọng cảm thấy bị bỏ rơi, Giám mục luôn gần gũi với họ, không đưa ra những giải pháp dễ dàng, mà là kinh nghiệm của các cộng đồng đang phấn đấu để sống Tin mừng trong sự giản dị và liên đới.
Đức tin và đức cậy sau đó hòa quyện trong ngài như một người của đức ái mục tử. Toàn bộ cuộc sống của Giám mục, toàn bộ sứ vụ của ngài, dù đa dạng và nhiều mặt, đều tìm thấy sự thống nhất trong điều mà Thánh Augustinô gọi là amoris officium [chức vụ yêu thương]. Ở đây, đời sống đới thần của ngài được thể hiện và tỏa sáng ở mức độ cao nhất. Cho dù là rao giảng, thăm viếng các cộng đồng, lắng nghe các linh mục và phó tế, hay đưa ra các quyết định hành chính, tất cả những gì ngài làm đều được truyền cảm hứng và thúc đẩy bởi lòng bác ái của Chúa Kitô Mục Tử. Với sự giúp đỡ của ân sủng của Thiên Chúa, được rút ra hàng ngày từ việc cử hành Thánh Thể và lời cầu nguyện của mình, Giám mục nêu gương về tình yêu thương huynh đệ đối với Phó tế hoặc Phụ tá của mình, đối với Giám mục hưu trí và các Giám mục của các giáo phận lân cận, đối với các linh mục, những cộng sự thân cận nhất của ngài, đặc biệt là những người đang trải qua những khoảnh khắc khó khăn hoặc bệnh tật. Trái tim của ngài rộng mở và chào đón, và ngôi nhà của ngài cũng vậy.
Anh em thân mến, đây là cốt lõi đối thần của cuộc sống của một Giám mục. Tập trung vào những khía cạnh này, và luôn được đánh thức bởi cùng một Chúa Thánh Thần, một số nhân đức thiết yếu khác có thể được thêm vào: sự thận trọng mục vụ, sự nghèo khó, sự tiết dục hoàn hảo trong tình trạng độc thân và các nhân đức của con người.
Sự thận trọng mục vụ là sự khôn ngoan thực tế hướng dẫn Giám mục trong các quyết định của mình, trong việc quản lý, trong mối quan hệ của mình với các tín hữu và với các hiệp hội của họ. Một dấu hiệu rõ ràng của sự thận trọng là việc thực hành đối thoại như một phong cách và phương pháp, cả trong mối quan hệ của mình với người khác và trong việc chủ trì các cơ quan tham gia: nói cách khác, trong việc giám sát tính đồng nghị trong Giáo hội đặc thù của mình. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dạy chúng ta nhiều điều về vấn đề này, nhấn mạnh bằng sự khôn ngoan sư phạm về tính đồng nghị như một chiều kích của đời sống Giáo hội. Sự thận trọng mục vụ cũng giúp Giám mục hướng dẫn cộng đồng giáo phận bằng cách trân trọng các truyền thống của mình và thúc đẩy các hướng đi và sáng kiến mới.
Để làm chứng cho Chúa Giêsu, Giám mục sống một cuộc sống nghèo khó theo Tin Mừng. Cuộc sống của ngài là một cuộc sống giản dị, tiết độ và lối sống năng nổ, đàng hoàng và đồng thời phù hợp với hoàn cảnh của phần lớn dân tộc mình. Người nghèo phải tìm thấy ở ngài một người cha và một người anh em, và không bao giờ cảm thấy khó chịu khi gặp ngài hoặc bước vào nhà ngài. Trong cuộc sống cá nhân, ngài phải tách khỏi việc theo đuổi sự giàu có và các hình thức thiên vị dựa trên tiền bạc hoặc quyền lực. Giám mục không bao giờ được quên rằng, giống như Chúa Giêsu, ngài đã được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần và được sai đi để mang tin mừng đến cho người nghèo (x. Lc 4:18).
Cùng với sự nghèo đói về vật chất, cuộc sống của Giám mục cũng được đánh dấu bằng hình thức nghèo đói cụ thể là độc thân và trinh tiết vì Nước Trời (x. Mt 19:12). Ở đây, không chỉ là vấn đề sống như một người độc thân, mà còn là thực hành sự trong sạch của trái tim và hành vi, và theo cách này, sống một cuộc sống của người môn đệ Kitô giáo và trình bày cho mọi người hình ảnh đích thực của Giáo hội, thánh thiện và trong sạch trong các chi thể của mình cũng như trong Đầu của mình. Ngài phải kiên quyết và quyết đoán khi giải quyết những tình huống có thể gây tai tiếng và với mọi trường hợp lạm dụng, đặc biệt là liên quan đến trẻ vị thành niên, và tôn trọng đầy đủ luật hiện hành.
Cuối cùng, Giám mục được kêu gọi vun trồng những đức tính của con người mà các Nghị phụ Công đồng cũng đã chọn đề cập trong Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis (số 3). Những đức tính này giúp ích rất nhiều cho ngài trong thừa tác vụ và trong các mối quan hệ với người khác. Chúng bao gồm sự công bằng, chân thành, độ lượng, cởi mở về trí óc và trái tim, khả năng vui mừng với những người vui mừng và đau khổ với những người đau khổ, cũng như khả năng tự chủ, tế nhị, kiên nhẫn, thận trọng, cởi mở lắng nghe và tham gia đối thoại, và sẵn sàng phục vụ. Những đức tính này, mà mỗi người chúng ta sở hữu ở mức độ nhiều hay ít theo bản chất, có thể và phải được vun trồng theo Chúa Giêsu, với ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Anh em thân mến, xin lời cầu nguyện của Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Phêrô và Phaolô ban cho anh em và cộng đoàn của anh em những ân sủng mà anh em cần nhất. Đặc biệt, xin cho họ giúp anh em trở thành những người hiệp thông, luôn thúc đẩy sự hiệp nhất trong hàng linh mục giáo phận. Xin cho mọi linh mục, không có ngoại lệ, cảm nhận được tình phụ tử, tình anh em và tình bạn của Giám mục của mình. Tinh thần hiệp thông đó khuyến khích các linh mục trong công tác mục vụ và làm cho Giáo hội đặc thù phát triển trong sự hiệp nhất.
Cảm ơn anh em đã nhớ đến tôi trong lời cầu nguyện của anh em! Tôi cũng đang cầu nguyện cho anh em và từ trái tim mình, tôi ban phép lành cho tất cả anh em.