Bài của Fabrizio Meroni
“Không củng cố đòi hỏi chung thủy cho đến chết của tình yêu... sẽ đưa Giáo hội đến chỗ trở nên trần tục, vô nghĩa và về mặt mục vụ, không có khả năng truyền đạt tình yêu của Thiên Chúa”.
Người sẽ chăn dắt đàn chiên của mình như người chăn chiên, Người sẽ ôm các chiên con vào lòng, ẵm chúng vào lòng và nhẹ nhàng dẫn dắt những chiên con đang cho bú (Is 40:11)
1. Tình yêu vẫn khả hữu
Sứ mệnh của Giáo hội mang tính mục vụ vì vai trò làm mẹ thiêng liêng của Giáo hội: Hiền thê của Chúa Kitô, mang thai trong Chúa Thánh Thần, thụ thai, hạ sinh và nuôi dưỡng những đứa con mà Giáo hội nhận được cách nhưng không từ Thiên Chúa. Những đứa con này, toàn thể nhân loại, là con trai và con gái của Thiên Chúa trong xác thịt của Giáo Hội. Càng kết hợp với Mình và Máu Thánh Thể của Chúa mình là Chúa Giêsu Kitô, Mẹ càng có thể là mẹ, là thầy, là mục tử nhân lành và là quan tòa đầy thương xót. Không điều gì Giáo Hội có và chia sẻ thuộc về Giáo Hội; mọi sự đều đến như một món quà hy sinh từ trên cao, từ Chúa, từ Đầu và Phu Quân của Giáo Hội. Nơi Đức Maria, Trinh nữ Mẹ Thiên Chúa, Giáo hội là mẹ vì Giáo hội đã trung thành đón nhận sự sống thần linh, trân trọng nó trong lòng và sẵn sàng cho đi vì sự sống của con cái mình (Lc 2:51). (1) Thừa tác vụ mục vụ bao gồm việc để cho Chúa phục sinh của mình làm cho Giáo Hội nên một với Người một cách sâu sắc đến nỗi Giáo Hội trở thành một công cụ trong sáng và mang tính bí tích cho sứ mệnh mục vụ của Chúa Kitô. Vị Mục Tử Nhân Lành làm cho Giáo Hội của Người trở nên mục vụ trong và qua sự hiệp nhất phu thê giữa Người và Hiền Thê của Người, được công bố trong Kinh Thánh và được hiện thực hóa trong Bí Tích Thánh Thể, vốn làm cho Thập Giá và Phục Sinh hiện diện và hoạt động trong thế giới. Vì Giáo hội là một với Chúa của mình nên Giáo hội có thể làm chứng cho con cái mình rằng Chúa tốt lành và nhân hậu biết bao cũng như việc Giáo hội được đón nhận như thế nào để trở thành ngôi nhà và đền thờ cho tất cả mọi người nam nữ đang tìm kiếm sự sống và sự thật trong tình yêu. Trong việc chăm sóc mục vụ của mình, “Giáo Hội là một người mẹ.” (2)
Giáo hội chăm sóc mục vụ cho đời sống con cái mình bằng cách nuôi dưỡng chúng bằng Lời Chúa, dạy dỗ con đường cứu độ của Chúa Kitô và dẫn chúng đến đời sống Thánh Thể của Người. Giống như bất cứ người mẹ thực sự và yêu thương nào, sự khôn ngoan đầy sư phạm của Thiên Chúa (Chúa Thánh Thần) soi sáng cho Giáo Hội qua việc phân định sâu sắc về những con đường trần thế. Giáo Hội dần nhận ra trong đức tin và đức ái, trong sự thật và lòng thương xót, cách nào và khi nào con cái của Giáo Hội còn cần được cho ăn sữa hoặc, khi trưởng thành, có khả năng nhận được thức ăn đặc và đối đầu với thử thách làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô cho đến lúc chết (1 Cr 3:1–3; Dt 5:11–14). Thức ăn đặc là Thánh Giá Chúa Giêsu được trao ban, chữa lành và cứu rỗi những ai mong muốn thuộc về Chúa Kitô, Đấng là Bánh thật từ trời xuống. Khi chúng ta là con Thiên Chúa, Cha chúng ta, chúng ta phải phát triển đến tầm vóc trọn vẹn trong Chúa Kitô và nhờ đó trở nên trưởng thành trong đức tin. Chúng ta được mời gọi hy sinh bản thân vì sự thật và vì phần rỗi của mọi người, nhờ đó tham gia vào sứ mệnh phổ quát của Giáo hội khi đạt đến tầm vóc trọn vẹn đó. Công việc mục vụ của Giáo Hội không bao giờ che giấu Thập Giá. Nó không bao giờ coi thường sự gian khổ hy sinh vì tình yêu (Ga 6:59-71). Sự sống, theo Tin Mừng, chỉ có thể được cho đi và chia sẻ thông qua sự hy sinh tự do. Như vậy, sự hy sinh là nội tại của sự thật tình yêu; đó là tính xác thực nội tâm và tính sinh hoa quả tinh khiết của nó. “Tình yêu hoàn hảo là tình yêu bị đóng đinh. Nhưng tình yêu bị đóng đinh, như Thánh Phanxicô Assisi đã nói, cũng là niềm vui trọn vẹn.” (3)
Giáo hội vừa là mẹ của mọi dân tộc, vừa là hiền thê của Chúa Kitô: tư cách làm mẹ của Giáo hội không phải là một điều trừu tượng, nhưng - giống như mọi tình mẫu tử - là một chức năng của sự hiệp nhất bất khả phân ly và ngày càng sâu sắc hơn với Chàng Rể của mình. Chúng ta biết và tham gia vào sự hiệp nhất này một cách đặc biệt và cao cả qua bí tích Thánh Thể. Như vậy, chúng ta thấy có một mối liên hệ đặc biệt giữa bí tích Thánh Thể và hôn nhân.
Bí tích Thánh Thể đưa Giáo hội và tất cả mọi người trong đàn chiên của Giáo hội vào sự hiệp nhất hữu cơ với Chúa, hoa trái mà chúng ta thấy nơi đức tin của các tín hữu và nơi chính các tín hữu – con cái thế giới, của mẹ chúng ta, Giáo Hội. Chúng ta thấy sự hiệp nhất và sinh hoa trái này được hình dung một cách đặc biệt trong hôn nhân: nơi hai người nam và nữ đến với nhau để sinh ra hoa trái một đứa con. Chính hai sự hiệp nhất này – sự hiệp nhất huyền nhiệm và nhưng không của thụ tạo và Đấng Tạo Hóa trong Bí tích Thánh Thể, cũng như sự hiệp nhất cũng huyền nhiệm và nhưng không của người nam và người nữ nơi đứa con – đã hướng dẫn Cô Dâu trong mọi hành động của mình trong thế giới này.
Vì vậy, khi nói về hoạt động mục vụ của Giáo hội, trước hết chúng ta phải biết rằng nó chỉ xuất phát từ—là kết quả của—sự hiệp nhất sâu sắc mà Cô Dâu có với Chàng Rể của mình. Và khi thừa nhận rằng hành động của mình chỉ có thể thực hiện được khi kết hợp với chính Mục Tử Nhân Lành, Giáo Hội sử dụng sự kết hợp này làm nguyên tắc cho tất cả các công trình của mình.
Sự sống con người chỉ có thể được chia sẻ và nuôi dưỡng thông qua việc dâng hiến bản thân, trong đó người nam và người nữ có thể trở thành một và hiến thân hoàn toàn vì sự sống của người khác. Bằng cách đó, mỗi người trong họ cũng có thể tìm thấy cuộc sống của riêng mình. Việc chăm sóc mục vụ liên quan đến sự sống con người từ lúc thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên, tuân theo chuyển động hữu cơ của việc hiến thân một cách hữu hiệu và tự do trong sự hiệp thông giữa những con người khác nhau về giới tính. Như vậy, hôn nhân là cốt lõi của bất cứ nỗ lực mục vụ nào, vì tình yêu vợ chồng có một đặc tính độc đáo hệ ở chỗ hiến tặng chính bản thân. (4) Trong thừa tác vụ mục vụ của mình, Giáo hội cố gắng tránh bất cứ quan tâm hành chính và quan liêu lấy mình làm trung tâm nào. Giáo Hội dấn thân hướng ngoại để mọi người có thể chia sẻ cuộc sống của Chúa một cách rất bản thân.
Chiều kích mục vụ của sứ mệnh Giáo hội được xác định bởi khả năng bí tích của Giáo hội cống hiến sự sống và ơn cứu độ của Chúa Kitô. Thực ra, qua việc thụ thai và sinh hạ con cái Thiên Chúa, sứ mệnh của Giáo hội mang tính mục vụ. Vì vậy, hôn nhân, sự hiệp thông yêu thương, độc đáo, không thể thay đổi và sinh hoa kết quả giữa người nam, chú rể và người nữ, cô dâu, là trung tâm sứ mệnh của Giáo hội. Việc chăm sóc mục vụ hôn nhân không thể trở thành một mối quan tâm giữa những mối quan tâm khác. Thật vậy, Giáo hội hiện hữu để truyền đạt sự sống của Thiên Chúa cho thế giới. Hôn nhân và gia đình, vợ chồng trong và qua con cái là trọng tâm của sự hiện hữu và sứ vụ của Giáo Hội. (5)
Như vừa đề cập, sự trung gian bản vị cụ thể của một người nam và người nữ, những người trong bí tích trở thành vợ chồng, cha và mẹ, luôn luôn cần thiết cho bất cứ người con nào của Thiên Chúa đến trong thế giới; sự trung gian này vừa là một hồng ân vừa là một mầu nhiệm. Do đó, hôn nhân không chỉ đơn thuần là một đối tượng chăm sóc mục vụ của Giáo hội. Bao lâu cuộc sống trong gia đình của Thiên Chúa là lý do cho việc tạo ra và hiện hữu của Giáo hội trong Thập giá như người phối ngẫu của Chúa Kitô, hôn nhân đúng nghĩa trở thành chủ thể thực sự, nền tảng và cơ cấu tích cực của bất cứ công việc mục vụ nghiêm túc và đích thực nào của cộng đồng Giáo hội. Hoạt động mục vụ phải được lên khuôn mẫu và lên cơ cấu dựa trên hôn nhân và gia đình vì hồng ân sự sống trọn vẹn cần được chia sẻ một cách rất bản vị. Giáo Hội được mời gọi làm chứng và làm việc vì vinh quang của Thiên Chúa, con người sống động. Khi sinh ra một hài nhi, Giáo hội đón nhận nó từ Thiên Chúa qua sự trung gian nhân bản và bí tích của cha mẹ nó (St 4:1); Giáo Hội trả lại đứa trẻ này trong Chúa Kitô cho Thiên Chúa bằng Lời Chúa và các bí tích. Vì thế, hôn nhân và gia đình tượng trưng cho tâm điểm của Mầu nhiệm Kitô giáo và lý do hiện hữu của Giáo hội. Thế giới và sự sống của nó là cốt lõi của đức tin, hy vọng và tình yêu của chúng ta: để tất cả mọi người có được sự sống, sự sống thần linh và có nó cách dồi dào (Ga 10:10). Tương lai của nhân loại và của Giáo hội như vậy thông qua gia đình được thiết lập trên hôn nhân bất khả tiêu và sinh hoa trái của người nam và người nữ. (6)
Một cách nghịch lý, trong con người có một niềm khao khát tình yêu vô tận, luôn đi đôi với cảm nghiệm cụ thể thấy mình yếu đuối và thất bại trong việc đạt được cùng ước muốn đó. Hôn nhân luôn tượng trưng cho việc người ta trao chính mình cho ước muốn đó một cách vô tận; Bí tích hôn nhân xác nhận với chúng ta rằng ước muốn vô tận này không những là yếu tố có thể đáp trả được mà còn có tính tạo ra nhân tính: tính độc chiếm người yêu, khả năng nhân bản hoàn toàn phó thác bản thân mình (cả thể xác lẫn linh hồn) cho người khác, và khả năng sinh hoa trái siêu việt của sự phó thác hoàn toàn cho chúng ta niềm hy vọng rằng tình yêu vẫn có thể thực hiện được và đáng sống. Chúng ta biết, qua tình yêu và sự hiệp nhất của Chúa Kitô với Giáo hội của Người, và do đó, trong mọi hôn nhân bí tích, tình yêu đó không chỉ đơn giản là một lý tưởng. Những nỗi sợ hãi và thất bại không bao giờ có thể kết tội người đàn ông và người đàn bà phải có một khao khát nản lòng về một hạnh phúc đã hứa nhưng không thể đạt được. Tính mới mẻ tích cực và đầy hy vọng của Tin Mừng Giáo Hội là trong tình yêu của Chúa Kitô dành cho chúng ta, phép lạ gia đình được thiết lập trên mối dây hôn nhân là một thực tại hiện tại thực sự có thể thực hiện được và có thể chấp nhận được:
Ngay từ giây phút bí tích hôn phối của họ, các đôi vợ chồng Kitô giáo đã được tháp nhập vào sứ mệnh của Chúa Thánh Thần, Đấng không chỉ hoàn thiện tình yêu tự nhiên của họ mà còn dẫn nhập đôi vợ chồng vào tình yêu cánh chung vốn kết hợp Chúa Kitô và Giáo hội. Tình yêu phu thê, do đó, được tiếp nhận và hội nhập bởi đức ái của Chúa Kitô, tháp nhập nó vào bên trong và đặt nó vào việc phục vụ hồng ân hôn nhân của chính Người dành cho Giáo hội. Một viễn cảnh như vậy làm sáng tỏ đặc tính bản thân của ân sủng, vở kịch đầy kịch tính của các ngôi vị Thiên Chúa đến gặp gỡ các cặp vợ chồng, chúc phúc cho họ bằng sự Hiện diện của các vị và lôi kéo họ vào việc phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa bằng cách ở lại trong đền thờ Hiệp thông thần thiêng của các vị. (7)
Quan tâm đương thời của huấn quyền liên quan tới vai trò đức tin bản thân của các cặp vợ chồng đã được rửa tội, để bí tích hôn nhân thành sự, (8) chỉ ra sự thiếu sót và yếu kém ra sao. Việc đào tạo mục vụ và giáo lý về hôn nhân cho các cặp đính hôn đã diễn ra trong nhiều thập niên qua. Với tư cách là một Giáo hội, chúng ta thường không mang lại cho những người tìm kiếm bí tích hôn nhân một sự hiểu biết và nhận thức rõ ràng về ơn gọi tham gia vào tình yêu phu thê thần linh và nhân bản của Chúa Kitô và Giáo hội. Hơn những khóa học tiền Cana hời hợt, các cặp đính hôn nên được tiếp xúc với một cuộc gặp gỡ đầy cảm nghiệm và tín lý với Chúa Kitô hằng sống, Con của Chúa Cha, Đấng mà Giáo hội của Người chào đón họ như những đứa con hoang đàng trở về nhà. Họ trở lại Giáo hội và xin bí tích hôn nhân vì tình yêu nhân bản của họ, vì lòng mong muốn xây dựng một gia đình, nuôi dạy con cái và chung thủy. Những ước muốn vốn thúc đẩy sự quay trở lại của họ rất đáng lưu ý và mang tính quan phòng.
Trong tình yêu chung thủy và bền vững của Chúa Kitô dành cho Giáo hội, mọi tình yêu tự nhiên đều tốt lành và đáng tin cậy bao lâu nó mời gọi người nam và người nữ hiến thân cho nhau phù hợp với tính sinh hoa trái hiệp nhất của sự khác biệt giới tính nơi thân xác vợ chồng của họ. Trong đức tin qua bí tích hôn nhân, sự phó thác bản thân của con người trong tình yêu có thể tham dự vào, được đón nhận và nâng đỡ bởi lòng trung thành sáng tạo của Thiên Chúa. Nhờ bí tích, đôi vợ chồng, được lồng vào tình yêu của Chúa Kitô và Giáo hội, trao đổi tình yêu của họ trong Chúa, nhận và trao ban cho nhau từ Người. Họ không còn bị bỏ rơi một mình trong tình trạng bất lực bi thảm trong việc nói bằng lời và thể hiện qua thân xác mình toàn bộ hồng ân phu thê đặc trưng của tình yêu nhân bản và thần linh. Vợ chồng nhân bản được ban cho sự chung thủy không phải của riêng họ. Tuy nhiên, trong đức tin và bí tích, lòng trung thành này có thể trở thành của họ một cách hữu hiệu. Trong bí tích hôn nhân, họ bước vào một hình thức lớn hơn vô cùng so với khả năng yêu thương của con người. Bằng chính hành vi tự do vâng phục Chúa Kitô và hiền thê của Người là Giáo hội, hình thức này được trao tặng một cách nhưng không như một hồng ân. (9)
Đây không phải là chủ nghĩa lãng mạn: hình thức tình yêu phu thê của Chúa Kitô luôn sẵn có và hữu hiệu, cho cả những cặp vợ chồng chung thủy lẫn những người vì nhiều lý do khác nhau mà thất bại hoặc bị phản bội trong hôn nhân của mình. Trong hình thức thần linh-nhân bản của tình yêu phu thê của mình, Chúa Kitô nâng cao sự đồng ý tự nhiên và tự do bằng cách biến thành khả hữu và có thực chất tính bất khả tiêu và sự toàn vẹn mà đôi vợ chồng lúc đầu luôn mong muốn trong việc hiến thân vợ chồng của họ, nhưng không thể đạt được vì nhân tính yếu đuối và bị tổn thương của họ. Sự nâng cao này hiện hữu ngay từ thời điểm ưng thuận trong hôn nhân bí tích, và điểm cốt yếu là nó không bao giờ rời bỏ hôn nhân, bất kể tình trạng hiện tại của hôn nhân có ra sao. Vì vậy, mọi cuộc hôn nhân đều là biểu tượng thực sự của lễ đính hôn và sự hiệp nhất thần linh giữa Chúa Kitô và Giáo hội của Người.
Trong những cuộc hôn nhân thất bại, Chúa Kitô ban cho những tâm hồn bị tổn thương và tan vỡ của đôi vợ chồng Thánh Giá và Sự Phục Sinh của Người như niềm hy vọng thực sự cho sự bất trung tội lỗi và đau khổ của họ đối với hình thức hôn nhân bí tích. Đúng là những người phối ngẫu ly dị, những người phối ngẫu bị bỏ rơi, những cặp ly dị và tái hôn được kêu gọi theo những cách rất khác nhau để chia sẻ nỗi đau khổ của Chúa Kitô và có lẽ đặc biệt nhất là sự hy sinh của Người. Tùy theo hoàn cảnh của họ - nghĩa là, nếu họ không trung thành với lời thề hôn nhân của mình, và do đó không chung thủy với hôn nhân của Chúa Kitô và Giáo hội của Người - thì họ không thể lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ bị loại trừ khỏi Giáo hội hoặc ân sủng của Chúa Kitô. Những người phối ngẫu này càng vâng phục những gì chân thật trong ân sủng mà họ được ban vào thời điểm ưng thuận bí tích, thì họ càng cảm nghiệm được lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa, qua sự gian khổ thực sự của tình trạng hôn nhân tan vỡ và thậm chí không thể cứu vãn được của họ.
Nhưng điều này có thể có ý nghĩa cụ thể gì? Trước hết, hoặc sự cô đơn vì người phối ngẫu trung thành với hôn nhân bí tích của mình, hoặc thậm chí họ không được tham dự một cách hoàn hảo vào việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể do cuộc kết hợp mới, đều nói lên tác động cụ thể của việc rạn nứt mối quan hệ hôn nhân trong đó cơ thể con người, trái tim con người và Thánh Thần của Thiên Chúa tham gia một cách hữu hiệu. Dù duy trì vết thương của sự bất tuân vẫn còn đó, người phối ngẫu này vẫn làm cho tình yêu phu thê của Chúa Kitô đối với toàn thể nhân loại trở nên hữu hình, không có sự hiểu lầm nào liên quan tới ý muốn chính xác của Chúa về tính bất khả tiêu của hôn nhân. (10) Như Ratzinger từng viết:
Có sự đồng thuận rõ ràng giữa các Giáo phụ (của Giáo hội) về tính bất khả tiêu của hôn nhân. Giáo Hội vào thời các Giáo Phụ rõ ràng đã loại trừ việc ly dị và tái hôn, chính vì sự trung thành vâng phục Tân Ước. Trong Giáo Hội vào thời các Giáo Phụ, các tín hữu đã ly dị và tái hôn không bao giờ được chính thức rước lễ sau một thời gian sám hối. Tuy nhiên, cũng đúng là Giáo hội không phải lúc nào cũng thu hồi một cách nghiêm ngặt những nhượng bộ ở một số vùng lãnh thổ nhất định, ngay cả khi chúng được xác định là không phù hợp với tín lý và kỷ luật của Giáo hội. Có vẻ cũng đúng là các Giáo phụ, trong đó có Đức Lêô Cả, đã tìm kiếm các giải pháp mục vụ cho các trường hợp biên giới hiếm gặp. (11)
2. Chăm sóc Mục vụ: Tin Mừng Sự sống và Hôn nhân trong Chúa Kitô
Sự thật vẫn ở trong Chúa Cha, và lòng thương xót, chúng ta biết, đang được phục hồi và viên mãn nhờ sự sống vượt qua. Hai đặc tính và hoạt động này của Thiên Chúa gặp nhau, ôm hôn nhau trong Chúa hy sinh và phục sinh. Không thể có sự tách biệt giữa hai điều này; trong sự hiệp nhất trong Thân Thể phục sinh, chúng mang lại mô thức cho sự sống hiểu theo nghĩa hẹp.
Sự sống đến từ sự thật bằng cách bước đi trên nẻo đường của Chúa Giêsu (Ga 14:6). Không ai có thể đến được với Chúa Cha mà không qua Người (Ga 14:7; Ga 10:15; Mt 11:25–27; Lc 10:21–22), và chính sự thật về sự sống này làm cho sự sống trở thành khả hữu, dễ chịu và sinh hoa trái. Nghĩa là, cha và mẹ, kết hợp vợ chồng một lần và mãi mãi, làm cho tất cả nhân loại trở thành con cái thực sự của Thiên Chúa qua sự trung gian của cha mẹ và bí tích. Qua Con của Người, Cha trên trời của chúng ta, trong Thánh Thần, bằng tình yêu vợ chồng giữa người nam và người nữ, sinh ra những đứa con theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1:27-28). Người nam và người nữ, trong hôn nhân, trao ban sự sống bằng cách đón nhận con cái và dâng hiến chúng lại cho Thiên Chúa Cha. Con đường dẫn đến sự sống là sự hiệp nhất vợ chồng, mà trong Chúa Kitô, là bí tích của sự hiệp nhất không thể phá vỡ của Người với Giáo hội.
Sự sống, qua việc hy sinh tự hiến và đón nhận lẫn nhau, thiết lập một sự hiệp nhất không thể thu hồi và không thể đảo ngược, là nguồn sống cho con cái và cho sự hiệp nhất của vợ chồng. Chính bản chất của sự khác biệt giới tính làm cho sự hiệp nhất giữa vợ chồng trong bí tích có thể mang lại sự sống bằng cách làm cho vợ chồng trở thành một. Vợ chồng càng hợp nhất và ổn định trong sự kết hợp của họ thì con cái họ càng phát triển một cách tự do và ngoan ngoãn hơn. Sự sống mà Mục Tử Nhân Lành đã hy sinh được ban tặng một cách nhưng không và không bao giờ bị lấy đi. Người có quyền phục hồi sự sống của Người trong việc Phục Sinh qua hy tế Thập Giá mà không phải bãi bỏ Thập Giá của Người (Ga 10:17–18). Việc dâng Mình và Máu Người cũng không thể thu hồi và không thể thay đổi như hồng phúc miễn phí là đứa con dành cho vợ chồng. Sự sống xuất phát từ sự tự hiến hoàn toàn đó mà không có bất cứ hạn chế hay điều kiện nào. (12) Qua sự dâng hiến hoàn toàn này, sự sống của đứa con làm chứng cho tính không thể tách rời nội tại của việc kết hợp, thụ thai và sinh nở. Sự sống đến với chúng ta nhờ sự thống nhất bền vững của cha và mẹ, mà tính bất khả thu hồi của họ không chỉ phụ thuộc vào quyết định tự do của họ. Sự sống, dưới hình thức nhân bản của đứa con, là bằng chứng của việc cha mẹ hợp nhất với nhau bằng hôn nhân và tạo thành một gia đình.
Sự thật cứu độ về hôn nhân hoàn toàn tập chú vào sự khác biệt thực sự giữa người nam và người nữ, điều này làm cho sự hiệp nhất và tình yêu độc đáo và bất khả tiêu của họ thành khả hữu. Sự hiệp nhất bất khả tiêu này mang lại hoa trái nơi con cái, là dấu chỉ không thể đảo ngược của sự hiệp thông vợ chồng và sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Trong Chúa Kitô, không có cách nào khác để người được rửa tội kết hôn. Hôn nhân là một bí tích thực sự dưới ánh sáng của và được thực hiện bởi Bí tích Rửa tội, đó là hôn nhân đích thực và bất khả tiêu giữa Thiên Chúa và dân của Người. (13) Khi bước ra khỏi bí tích vợ chồng, những cuộc kết hợp sau đó của những người đã ly dị không bao giờ có thể được coi là ngang hàng về bản chất và bí tích với cuộc hôn nhân mà Chúa Kitô mong muốn cho Giáo hội và các môn đệ của Người (Mc 10:1–12; Mt 19:1–12; Eph 5:21–32; Kh 19:7–9, 21:1–14). Chúng ta phải thừa nhận rằng thật vô cùng khó hiểu làm thế nào một mặt có thể bảo vệ, tích cực công bố và làm chứng cho sự hiệp nhất bất khả tiêu của hôn nhân bí tích, và mặt khác, để cho tác phong mục vụ cho phép hoàn toàn ngược lại. Cách duy nhất để nắm bắt được luận lý nội tại của việc chăm sóc mục vụ so với tín lý là quay trở lại với việc Môsê, về phương diện mục vụ, cho phép ly dị do sự cứng lòng đầy tội lỗi của trái tim con người đi ngược lại ý muốn nguyên thủy của Thiên Chúa (Mt 19:7–8; Đnl 24: 1): việc phá bỏ điều Thiên Chúa đã hợp nhất một cách hợp lệ (Mt 19:6) khó có thể được mô tả như một hành vi thương xót mục vụ, mà chỉ là sự bất trung cần hoán cải và sám hối. Điều đáng kinh ngạc là có bao nhiêu suy tư thần học và mục vụ đương thời về chủ đề này lại tránh né bất cứ sự đề cập nghiêm túc nào đến tội lỗi và sức nặng đạo đức của việc tự ý phá bỏ một cuộc hôn nhân thành sự. Trong cuộc tranh luận đương thời, không có đủ sự quan tâm đến sự thật của bí tích được tự do cử hành. Không có đủ sự quan tâm nghiêm túc đến lợi ích và tương lai của những đứa trẻ bị tổn thương do cuộc ly hôn và sự kết hợp mới của cha mẹ ruột. Dường như việc chăm sóc mục vụ cho những người ly dị và tái hôn chỉ tập trung vào hai người trong cuộc hôn nhân thứ hai hoặc thứ ba của họ. Ngay cả ở nguồn gốc tự nhiên và tạo vật của nó, hôn nhân không chỉ là một cấu trúc đơn giản của ý chí chủ quan, tình cảm con người và cạnh tranh với sự ưng thuận tự do. Sự hiệp nhất vợ chồng và con cái là những chứng nhân hữu hiệu về mặt thể xác – giống như bí tích nguyên thủy – đối với bản chất xã hội và đối với sự cởi mở siêu việt tới tình yêu phu thê của Thiên Chúa. Tình yêu vợ chồng này luôn sâu sắc hơn, cao cả hơn, trọn vẹn hơn và mạnh mẽ hơn sự tự do của con người và tình cảm của những người yêu nhau. Chúa Kitô, trong tình yêu của Người đối với Giáo Hội, cho thấy người nam và người nữ có khả năng cụ thể như thế nào để có được tình yêu vợ chồng sinh hoa trái. Tình yêu nhân bản của họ, sự khác biệt giới tính của họ và sự ưng thuận tự nhiên, tự do, hôn nhân của họ được Chúa Kitô tiếp nhận và hoàn thành vượt quá khả năng tự nhiên của họ trong Giáo hội mà không cần phá hủy những chiều kích nguyên thủy của tình yêu thụ tạo, ý chí tự do và tình cảm con người. Việc giản lược ngây thơ bí tích hôn nhân thành tình yêu chủ quan cá nhân, mà sự biến mất của nó tuyên bố cái chết của bí tích đúng nghĩa, mở ra cánh cửa cho việc mục vụ thừa nhận bất cứ loại tình yêu chủ quan nào khác, độc lập với tính sinh hoa trái nội tại và sự khác biệt tính dục của nó. (14) Quyết định anh hùng của những người phối ngẫu bị bỏ rơi trong việc giữ vững sự chung thủy với bí tích hôn nhân mà không tái hôn cho thấy tính khách quan thực sự và bản chất hy sinh của tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo hội của Người. Sự khoan dung mục vụ nhân danh lòng thương xót, ngày nay thường được viện dẫn và đề cập đến, ít chú ý đến người phối ngẫu vô tội bị bỏ rơi đã quyết định trung thành với hôn nhân bí tích của mình. Giáo hội chung hàng với lòng thương xót không trung thực này có thể tỏ ra quan tâm về mục vụ hơn đối với người phối ngẫu đang tìm cách tái hôn hơn là với những người bị bỏ rơi và vẫn còn là người phối ngẫu chung thủy. Ở đây chúng tôi xin trích dẫn Đức Hồng Y Gerhard Müller:
“Tình yêu không chỉ là một cảm giác bản năng. Từ bản chất, nó là sự tự hiến.... Đối với các Kitô hữu, hôn nhân của những người đã được rửa tội tháp nhập vào Thân Mình Chúa Kitô có tính chất bí tích và do đó tượng trưng cho một thực tại siêu nhiên. Một vấn đề mục vụ nghiêm trọng nảy sinh từ việc nhiều người ngày nay đánh giá hôn nhân Kitô giáo chỉ dựa trên những tiêu chuẩn trần tục và thực dụng. Những ai suy nghĩ theo ‘tinh thần thế gian’ (1 Cr 2:12) không thể hiểu được tính bí tích của hôn nhân. Giáo hội không thể đáp ứng sự thiếu hiểu biết ngày càng gia tăng về tính thánh thiêng của hôn nhân bằng cách thực tế chấp nhận điều được cho là không thể tránh khỏi, nhưng chỉ bằng cách tin tưởng vào “Chúa Thánh Thần phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể hiểu được những hồng ân Thiên Chúa ban cho chúng ta” (1 Cr 2: 12). Bí tích hôn nhân là một bằng chứng cho sức mạnh của ân sủng, sức mạnh thay đổi con người và chuẩn bị toàn thể Giáo hội cho thành thánh, thành Giêrusalem mới, Giáo hội được chuẩn bị “như cô dâu trang điểm cho chồng mình” (Kh 21:2). Tin Mừng về sự thánh thiện của hôn nhân phải được công bố với tinh thần thẳng thắn mang tính tiên tri. Bằng cách thích ứng với tinh thần của thời đại, một vị tiên tri mệt mỏi tìm kiếm sự cứu rỗi cho chính mình chứ không phải sự cứu rỗi của thế giới trong Chúa Giêsu Kitô”. (15)
Để trở thành một chân lý cứu độ mang lại sự sống, chân lý Kitô giáo về tính bí tích của hôn nhân phải đặt mọi sự đổ vỡ tội lỗi, sự bất trung và tái hôn dưới chân Thập Giá. Như bước đầu tiên hướng tới một sự hoán cải thực sự, việc ly hôn sau đó tái hôn cần phải được thừa nhận là tội lỗi nội tại và như một lời kêu gọi sám hối. Quả thực, phá vỡ một cuộc hôn nhân thành sự bao hàm một lời cáo buộc tội lỗi chống lại sự hiệp nhất vợ chồng giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Tuy nhiên, sự khác biệt về giới tính, tình yêu hợp nhất bất khả tiêu và sự ưng thuận tự do vợ chồng của bí tích Kitô giáo có thể phải đối diện và thực sự ôm lấy nỗi đau khổ của tất cả những người bị ảnh hưởng bởi sự tan vỡ cố tình của một cuộc hôn nhân bí tích thành sự. Với cùng một tình yêu bị đóng đinh và phục sinh dành cho Hiền Thê của Người là Giáo Hội, Chúa, với tư cách là Mục Tử Nhân Lành dưới hình thức Chiên Con bị giết, đạt tới cốt lõi của bí tích hôn nhân. Cánh tay dang rộng của Người gặp gỡ tất cả những tấm lòng tan vỡ, mà không mâu thuẫn hay nhầm lẫn những cặp vợ chồng đang đấu tranh cho sự hợp nhất và chung thủy trong hôn nhân bí tích. Con chiên lạc luôn thuộc về cùng một đàn gồm chín mươi chín con là Giáo Hội Công Giáo. Ngay với một người lạc lối khi ly dị người phối ngẫu bí tích của mình, Chúa Kitô không bao giờ tách mình ra khỏi họ trong và qua bí tích rửa tội. Khi được kết hợp với Chúa Kitô, người phối ngẫu không bao giờ có thể rời bỏ Giáo hội hoặc tính sinh hoa trái thiêng liêng và bí tích của Chúa Kitô.
Bằng cách phân định các bình diện khác nhau của trách nhiệm luân lý trong việc phá vỡ một cuộc hôn nhân bí tích thành sự, Bí tích Thánh Thể, và trong nó, bí tích hòa giải, không bao giờ có thể được hiểu hoặc tìm kiếm như một quyền bí tích. Chung thủy với hôn nhân, hoặc ly dị và tái hôn, người ta hoặc lãnh nhận trong đức tin hoặc loại mình ra khỏi Bí tích Thánh Thể, vốn là một hồng ân nhưng không - không bao giờ là một phần thưởng hay một quyền lợi. (16) Nếu một sự hòa giải đích thực xảy ra, tội lỗi phải được thừa nhận dưới ánh sáng lòng thương xót và tình yêu chân thật của Thiên Chúa. Giáo Hội nên phân định, cả tòa trong lẫn tòa ngoài, tính vô hiệu của cuộc hôn nhân đầu tiên, sự vô tội hay tội lỗi của vợ chồng, và cách họ phải nghiêm túc dấn thân vào đời sống Kitô giáo và bí tích thông qua việc sám hối và hoán cải. Những đòi hỏi thương xót trong một tiến trình rất võ đoán và mơ hồ về việc được lãnh nhận bí tích trở lại của những người đã ly dị và tái hôn, dựa trên những suy diễn mục vụ từ các điều giáo luật của các công đồng cổ xưa hoặc dựa trên những thực hành ngoại lệ của các giáo phụ, (17) đều gây hiểu lầm và có hại cho lợi ích tinh thần của các tín hữu—đặc biệt là con cái của các cặp vợ chồng ly dị. Theo luận lý sai lầm này, mục vụ của Giáo hội cuối cùng sẽ chấp thuận việc ly hôn của cha mẹ họ và cố gắng giải quyết cuộc ly thân đầy tội lỗi của họ bằng một cuộc hôn nhân mới được chúc lành. Hành động này làm gia tăng đáng kể sự đau khổ và đau lòng của những đứa trẻ bị tước mất gia đình ruột thịt của các em. Đức tin của trẻ em cũng có thể bị tổn thương nặng nề bởi một Giáo hội dường như rất nhượng bộ trước sự chia rẽ tội lỗi của cha mẹ chúng và gần như thờ ơ với chúng. Cuối cùng, những người dễ bị tổn thương – cụ thể là những đứa con của bí tích hôn nhân – sẽ bị tổn thương và bị lãng quên bởi mối quan tâm mục vụ vốn có mục đích thương xót và bao dung, nhưng trên thực tế lại bất công và có hại.
Có thể gợi ý rằng các kết hợp dân sự mới có thể mang lại những mối quan hệ tốt hơn giữa các người đàn ông và đàn bà cũng như một môi trường yêu thương và chăm sóc hơn cho con cái của những cuộc hôn nhân trước. Tuy nhiên, không gì có thể xóa bỏ hay xóa đi những vết thương của sự chia ly, chia rẽ. Nỗi đau khổ này do cha mẹ ly hôn áp đặt lên con cái, và chúng không chỉ lớn lên trong vết thương mà còn mang vết thương đó trong mình suốt cuộc đời. Tất nhiên, cha mẹ kế có thể dành sự chăm sóc và tình cảm của cha mẹ cho con cái của những cuộc hôn nhân trước bên cạnh con trai và con gái ruột của họ. Nhờ tình yêu tự hiến nhưng không của mình, cha mẹ kế lại luôn cởi mở và chữa lành vết thương do sự bất trung không thể cứu chữa của cha mẹ ruột của con cái. Các gia đình kế và nhận nuôi không bao giờ cần phải che giấu sự thật về danh tính của đứa trẻ để yêu thương nhiều hơn: các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông (Ga 8:32).
Nhưng cuối cùng, không có sự thay thế nào cho người mẹ và người cha ruột thịt, và “qua sự hiệp thông các bản vị diễn ra trong hôn nhân, một người đàn ông và một người đàn bà bắt đầu một gia đình. Gắn liền với gia đình là gia phả của mỗi cá nhân: gia phả của con người. Chức năng làm cha và làm mẹ của con người bắt nguồn từ sinh học nhưng đồng thời cũng vượt lên trên nó... Khi một người mới được sinh ra từ sự kết hợp phu thê của hai người, họ mang theo mình vào thế giới một hình ảnh đặc thù và một họa ảnh của chính Thiên Chúa: gia phả của con người được ghi khắc trong chính sinh học của việc sinh hạ”. (18)
Vượt lên trên chính mình về thể xác và tinh thần, nhờ sự kết hợp vợ chồng và sinh sản, cho thấy chỉ có con người mới có thể có được lịch sử qua con cái như những chủ thể tự do, thông minh và yêu thương như cha mẹ chúng. (19) Không ai đứng trước mặt Thiên Chúa và nhận thức được bản chất của mình có thể che giấu sự thật về việc họ thuộc về Thiên Chúa Cha về mặt sinh học thông qua sự trung gian nhân bản của cha mẹ họ. Tuy nhiên, nơi Thập Giá Chúa Kitô, bất cứ tình yêu quên mình nào cũng có thể mang lại sự sống cho mọi người, kể cả con cái của cuộc hôn nhân trước. Một lần nữa, luôn luôn có khả năng những người ly dị và tái hôn có thể đại diện và sống sự thật và lòng thương xót vốn là sự sống và món quà của Chúa Kitô dành cho chúng ta: họ có thể đào sâu việc tự hiến của mình bằng cách giữ cho vết thương của cuộc hôn nhân tan vỡ trước đó của họ luôn rộng mở cho tình yêu tự hy sinh đối với nhau và đối với con cái của nhau. Và cần phải nhấn mạnh một lần nữa rằng không thể có bất cứ đòi hỏi nào về việc được nhận lại Bí tích Thánh Thể như thể hôn nhân bí tích của họ không còn hiệu lực. Sự vâng phục của họ sẽ thể hiện ước muốn ăn năn và sẽ là dấu hiệu của sự phục vụ khiêm tốn đối với sự thật.
Còn nữa