3. Sự thật và lòng thương xót trong hôn nhân và tình yêu
Bí tích hôn nhân có thể thông truyền một cách hữu hiệu tình yêu phu thê của Thiên Chúa và chỉ ban ân sủng thiêng liêng trong và qua hồng ân vợ chồng mà thôi. Thật vậy, quyền năng cứu độ và chữa lành của bí tích có thể hữu hiệu và chắc chắn tích cực với điều kiện là chất thể của bí tích, sự ưng thuận thể xác của vợ chồng, là trong sáng một cách khách quan đối với ơn thánh vô hình nhưng luôn hiện diện của Thiên Chúa. Mối tương quan hôn nhân giữa Chúa Kitô, Chàng Rể và Giáo Hội, Cô Dâu được Người tạo dựng, cần và đòi hỏi một cách hiển nhiên sự mặc khải cụ thể và lịch sử về thân xác phu thê của người nam và người nữ kết hợp trong hôn nhân bí tích để cứu chúng ta một cách đầy thương xót. (20)
David S. Crawford làm sáng tỏ:
“Sự cho đi trọn vẹn của con người được thực hiện qua cơ thể; tình yêu con người không bao giờ được thể hiện trọn vẹn trong sự ưng thuận không có thân xác. Tình yêu trọn vẹn của con người luôn là việc cho đi tất cả những gì mình có, như corpore et anima unus [một trong thân xác và linh hồn]. Do đó, sự hoàn hợp tình dục mang theo sự thuộc về nhau bắt đầu bằng sự ưng thuận để hoàn thành nó. Nó tiếp tục những gì đã được hàm ý trong sự ưng thuận bằng lời nói và đưa nó đến đỉnh cao và sự viên mãn trong xác thịt. Chính trên cơ sở này mà truyền thống hiểu vai trò của sự hoàn hợp tình dục là biểu thị sự kết hợp của Chúa Kitô với Giáo hội hay sự hợp nhất giữa bản chất thần linh và con người trong Nhập thể. Tóm lại, mối dây hôn nhân bí tích là bất khả tiêu vì sự kết hợp giữa bản tính Thiên Chúa và nhân loại trong Nhập Thể và qua vai trò làm mẹ của Đức Maria là bất khả tiêu”. (21)
Tính hiển thị của việc trao đổi xác thịt nam nữ của họ là điều cần thiết cho tính hữu hiệu và giá trị của bí tích. Ân sủng ban sự sống của Thiên Chúa kêu gọi họ tự hiến thân xác cho nhau để sinh hoa kết trái (nơi con cái) và cứu rỗi cũng như hoàn thiện vợ chồng trong sự hiệp nhất phu thê của họ. Sự vâng phục tự do và sự chung thủy đầy ân sủng của hai vợ chồng trong sự ưng thuận và hoàn hợp theo giao ước của họ cho phép Thánh Thần Chúa biến đổi thân xác họ thành một dấu chỉ bí tích sống động, hữu hình và tích cực của tình yêu Thiên Chúa vì lợi ích của sự sống con người. Theo luận lý của Nhập Thể, (22) bản chất thụ tạo, ơn cứu độ Kitô giáo và mặc khải đều hoàn toàn bất khả tiêu và không thể tách rời. Tạo dựng là vì giao ước với Thiên Chúa trong Chúa Kitô qua Chúa Thánh Thần. Hôn nhân, ngay từ khi bắt đầu được tạo dựng, đã mở ra và thích hợp cho việc thông truyền và biểu lộ bí tích tình yêu phu thê của Thiên Chúa. Điều đó đúng đến mức tình yêu của Thiên Chúa có lòng thương xót và hòa giải người nam và người nữ một cách hữu hiệu nhờ khả năng tự nhiên của họ và sự vâng phục vợ chồng tự do mà họ có được với tư cách là vợ chồng, trong trái tim và trên toàn bộ cơ thể của họ. Thiên Chúa cứu chúng ta bằng cách mặc khải chính Người, và sự mặc khải thần thiêng xảy ra trong khi cứu chuộc chúng ta. Tình yêu và sự thật luôn xuất hiện và trở thành nhập thể cùng nhau và cần nhau để được hữu hiệu và chân thực về mặt bí tích. Ngược lại, bất cứ sự mâu thuẫn tùy tiện nào về thể xác và bí tích giữa hôn nhân và Bí tích Thánh Thể đều có nguy cơ làm suy yếu trật tự được tạo dựng tự nhiên của thân xác con người, nam và nữ, vợ chồng trong bậc đồng trinh và vợ chồng. Hơn nữa, sự thiếu nhất quán này có thể làm giảm lòng tin vào khả năng của thân xác tự nhiên hướng về việc trở thành dấu hiệu hữu hiệu trông thấy và sự thể hiện tình yêu của Thiên Chúa cũng như sự hy sinh cứu chuộc của Chúa Kitô cho sự sống của Hiền thê của Người, là Giáo hội. Nói cách khác, mối quan hệ vợ chồng giữa người nam và người nữ trong hôn nhân bí tích, với tư cách là thân xác và linh hồn đã được rửa tội, được định hình bởi một trật tự thần học lấy Chúa Kitô làm trung tâm ngay từ đầu, vì toàn thể thiên nhiên được tạo dựng trong và cho mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo hội ngay từ đầu việc dựng nên nó cho đến khi nó hoàn tất về mặt cánh chung (Eph 1:3–14; Cl 1:15–20; Ga 1:1–5). Như Balthasar giải thích:
“Mối quan hệ giữa người nam và người nữ trong hôn nhân là hình ảnh của mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo hội và phải khuôn mẫu theo chuẩn mực của mối quan hệ đó. Do đó, quy tắc quyết định cho mối quan hệ nam nữ là một quy tắc thần học, không phải là một quy tắc rập khuôn theo phong tục xã hội của một thời điểm cụ thể”. (23)
Ân sủng bí tích tạo ra sự trong sáng khách quan giữa sự ưng thuận vợ chồng, thể xác và tinh thần, và nội dung nền tảng nội tại của nó, tình yêu phu thê giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, mà họ được mời gọi thể hiện một cách hữu hình và hữu hiệu ngay từ buổi đầu tạo dựng. Như vậy, mối tương quan yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, như sự hiệp thông mang lại sự sống giữa Thiên Chúa và con người, cho thấy lý do (logos) này là toàn thể tạo vật tìm kiếm Mầu Nhiệm Vượt Qua vì mục đích hoàn thành cánh chung của nó. (24)
Do đó, nếu Thập Giá và Sự Phục Sinh của Chúa Kitô, trong tính sinh hoa kết trái phu thê và thánh thể trong Giáo Hội, có thể bị mâu thuẫn bởi sự chống đối về mặt bí tích của những người đã rửa tội ly dị và sau đó tái hôn, những người mà cuộc hôn nhân trước vẫn còn hiệu lực, thì lòng trung thành cụ thể của Thiên Chúa đối với chúng ta và tính hữu hiệu của ân sủng cứu độ của Người trong đời sống lịch sử của chúng ta có thể bị nghi ngờ và không tin một cách nghiêm túc. (25) Chúng ta sẽ đặc biệt bối rối và lầm lạc về tình yêu phu thê vượt qua của Chúa Kitô đối với Giáo hội của Người và thế giới, cụ thể là ở khả năng của tình yêu Thiên Chúa trong việc cứu rỗi và biến đổi tạo vật theo luận lý đã được mặc khải của Nhập Thể. Cuộc xung đột bí tích về Bí tích Thánh Thể và sự tấn công vào giá trị bí tích của tình yêu thể xác vợ chồng của những cặp vợ chồng đã ly dị và sau đó tái hôn sẽ tạo ra một sự thuộc về Giáo hội một cách đáng ngờ vực. Sứ mệnh làm chứng cho khả năng thực sự của Giáo Hội trong việc làm trung gian cho sự sống và tình yêu của Thiên Chúa cho thế giới sẽ bị nguy hiểm nghiêm trọng. Giáo Hội từng viết về điều này nhiều lần trước đây; tôi xin đơn cử một trường hợp ở đây:
Khi tiếp nhận những người ly dị và tái hôn vào Bí tích Thánh Thể, Giáo hội sẽ để cho những bên như vậy tin rằng họ, trên bình diện dấu hiệu, có thể thông đạt với Đấng mà họ chối bỏ mầu nhiệm vợ chồng trên bình diện thực tại. Hơn nữa, làm như vậy có nghĩa là về phần mình, Giáo hội tuyên bố mình phù hợp với những người đã được rửa tội vào lúc họ bước vào hoặc ở lại trong một sự mâu thuẫn khách quan rõ ràng với đời sống, tư tưởng và chính sự hiện hữu của Chúa như Hôn phu của Giáo hội. (26)
Việc phá vỡ một cuộc hôn nhân thành sự về mặt bí tích sẽ đâm và làm tổn thương Chúa Kitô và hiền thê của Người là Giáo hội. Sự chia rẽ này, một cách nội tại, làm rối loạn khả năng của thân xác con người dị biệt về giới tính trong việc diễn tả và làm cho tình yêu phong phú của Thiên Chúa trở nên thực sự và hiển thị, cả trong thân xác thánh thể lẫn trong sự hiệp nhất thân xác vợ chồng.
Quyền năng của lòng thương xót Chúa phục hồi chúng ta vào sự hiệp thông bí tích với Thiên Chúa qua Hiền thê của Người là Giáo hội sẽ không còn hiệu lực nữa, bởi vì sự thật trong tính hữu hiệu của nó sẽ không định hình được mô thức của chất thể bí tích – cả Bí tích Thánh Thể lẫn hôn nhân. Sự chung thủy bất khả tiêu sẽ không thể thực hiện được nữa vì con người không có khả năng chung thủy trong việc sinh hoa kết quả vợ chồng. Mâu thuẫn này sẽ tạo ra xung đột nội tâm vì cơ thể, thời gian, không gian, chất thể và chuyển động của chúng ta vốn mang tính cởi mở đón nhận hôn nhân, đón nhận tình yêu. (27) Toàn bộ thế giới hữu hình và vật chất được xác thịt con người chúng ta đón nhận nhờ Nhập thể. Thật vậy, thân xác, cả thánh thể lẫn vợ chồng, đều quan trọng đối với tính thành sự, tính hữu hiệu và thực tại lịch sử của ân sủng cứu độ của Thiên Chúa để biến đổi thế giới.
Việc hiểu tín lý của Giáo hội về ơn gọi và vai trò của thân xác chúng ta cũng như ý nghĩa phu thê của nó (28) phù hợp với luận lý của mặc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô là điều cần thiết cho bất cứ ngành nhân học nào cho rằng nó thỏa đáng với kinh nghiệm con người và với ý chí của Thiên Chúa muốn cứu toàn thể nhân loại (1 Tm 2:3–7). Lý do thân xác chúng ta tự bản chất có tính phu thê, cởi mở và thích hợp qua sự hiệp thông thân xác, là để đón nhận Thiên Chúa và bày tỏ tình yêu phu thê của Người đối với nhân loại qua Con của Người, trong mối tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Bất cứ sự không trung thành nào với luận lý bí tích của hình thức phu thê của Nhập thể trong Mầu nhiệm Vượt qua đều cản trở nghiêm trọng khả năng nội tại của cơ thể chúng ta trong việc mang và thông truyền ân sủng ban sự sống của Thiên Chúa.
Bằng cách đi tắt khỏi những ý định mục vụ được cho là có lòng thương xót, tính đáng tin cậy và tính cụ thể lịch sử của các bí tích trong lời lẽ và nội dung phụng vụ của chúng bị đe dọa. Đức Gioan Phaolô II viết: “Không hề giảm bớt giáo huấn cứu độ của Chúa Kitô là một hình thức bác ái cao cả dành cho các linh hồn”. (29) Bởi vì về mặt luân lý, không thể khôi phục lại sự tương ứng trong sáng giữa hai người vợ chồng (thể xác và tinh thần) và sự thật về hôn nhân bí tích của họ, trong chiều kích hy sinh của thân xác Thánh Thể của Chúa Kitô, sự rạn nứt giữa hai người tạo ra một vết thương không thể hàn gắn được. Vết thương này đòi hỏi sự chăm sóc mục vụ đầy đủ và đích thực hơn một niềm tin công khai bên ngoài về sự công chính mang tính bí tích của mối quan hệ mới giữa một người đàn ông và một người đàn bà đã ly hôn. Một giải pháp mục vụ sai lầm có thể làm tổn hại đến tín lý, sự tín thác và đức tin vào bí tích rằng Thiên Chúa yêu thương và cứu rỗi chúng ta qua các bí tích. Những nhượng bộ mục vụ làm tổn hại đến sự hiệp nhất giữa tình yêu và sự thật sẽ tạo ra sự không chắc chắn và các nghi ngờ tín lý, giản lược tình yêu hôn nhân bất khả tiêu giữa vợ chồng thành một lý tưởng không thể đạt tới, từ đó loại mặc khải và sự hiện diện tích cực của Thiên Chúa ra khỏi lịch sử. Do đó, hiệu quả của bí tích sẽ bị giới hạn ở một chiều kích riêng tư rất chủ quan mà không có bất cứ tác động xã hội, văn hóa hoặc cộng đồng nào. Nếu những người trong thừa tác mục vụ có ý đi tìm con chiên lạc bằng cách gạt đi khó khăn của sự thật, thay vì chấp nhận khó khăn này vì chính sự thật, họ sẽ xúc phạm đến chín mươi chín con chiên vẫn đang cần ơn cứu rỗi theo bí tích. Hơn nữa, chúng nhất thiết gây nguy hiểm cho sự chắc chắn của tất cả các tín hữu đang nghi ngờ về quyền năng bí tích của Giáo hội và hoạt động hữu hiệu của Giáo hội trong và qua tất cả các hoàn cảnh và tình huống lịch sử cụ thể của chúng ta. Bất cứ quyết định mục vụ nào ảnh hưởng đến các bí tích luôn liên quan đến tín lý, vì nhờ sự thật được mặc khải và hiểu đúng, Giáo hội có thể phục vụ Thiên Chúa trong các bí tích của Người vì ơn cứu độ của thế giới, vì sự sống của chúng ta.
Thật không may, trong nhiều suy tư thần học liên quan đến những phát triển hướng tới một cách tiếp cận mục vụ đầy lòng thương xót đối với những người ly dị và tái hôn, dường như thiếu sự hiểu biết mang tính bí tích về sự khác biệt giới tính của con người. Những người đề xướng những sáng kiến mục vụ này không đưa ra cũng như không suy tư đầy đủ về những quy chiếu đáng kể đến ý nghĩa phu thê của thân xác hoặc đến hôn nhân như một bí tích nguyên thủy. Những người đề xuất những ý tưởng như vậy không tham gia vào một nền nhân học thần học gắn kết về mặt bí tích với sự khởi đầu nguyên thủy của người nam và người nữ, sự hiệp nhất kép vợ chồng và hoa trái của họ. Hậu quả là sự kiện là nam hay nữ trở nên gần như dửng dưng với kế hoạch sáng tạo và nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.
Khi nói đến việc phá vỡ mối dây hôn nhân bí tích giữa người nam và người nữ đã được rửa tội do mối quan hệ vợ chồng mới, thì mối quan hệ Chúa Kitô-Giáo Hội, vốn đã được biểu thị nơi Ađam và Evà, vẫn nằm ngoài bất cứ sự xem xét quan trọng nào. Đúng hơn, việc chăm sóc mục vụ cho các cặp ly dị và tái hôn có nguy cơ trở thành một lòng trắc ẩn tâm lý, sự thông cảm hời hợt hoặc sự hiểu biết thương xót chủ quan, tìm cách đưa vợ chồng trở lại đời sống bí tích trọn vẹn của cộng đồng trong khi phớt lờ sự thật của tình hình bí tích và nhân học của họ. Những người đề xuất những sáng kiến mục vụ này tỏ ra không đủ quan tâm đến tín lý và mầu nhiệm hôn nhân của mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Họ khẳng định, theo cách duy danh, rằng không cần phải thay đổi giáo huấn của Giáo hội, chỉ cần điều chỉnh nó cho phù hợp với những thách thức văn hóa mới bằng các hoạt động mục vụ. Lập luận của họ có xu hướng một mặt dựa vào những căng thẳng giữa lòng thương xót mục vụ và việc chăm sóc những người ly dị và tái hôn, và, mặt khác, dựa vào sự nghiêm ngặt của Giáo luật và Huấn quyền chính thức trong việc giải thích giới luật tuyệt đối của Chúa về tính bất khả tiêu của hôn nhân. Thực hành của các Giáo hội Đông phương thường được đề cập đến cùng với một số ngoại lệ mang tính lịch sử của các giáo phụ được đưa ra cho những trường hợp cụ thể. Họ quên rằng những trường hợp ngoại lệ này xảy ra khi tín lý của Giáo hội về hôn nhân chưa được phát triển, hiểu biết và giảng dạy một cách đầy đủ và có tổ chức như ngày nay - đặc biệt kể từ khi có tông huấn Familiaris consortio. (30) Sáng thế, trong nền tảng lấy Chúa Kitô làm trung tâm, và trọn lịch sử cứu độ được hoàn tất trong Giao Ước Mới, với ý nghĩa hữu thể học của nó đối với thiên nhiên, thế giới, lịch sử và nhân học, vẫn chưa được xem xét. Điều này càng trở nên khó hiểu hơn khi chúng ta nhớ lại rằng giáo huấn của Chúa Giêsu về hôn nhân luôn tham chiếu việc khởi đầu của công cuộc sáng thế, (31) được coi là nền tảng và mặc khải về kế hoạch cứu rỗi thế giới của Thiên Chúa (Mt 19:3-9; 10: 2–12; Eph. 5:21–32).
Hơn nữa, việc thiếu tham chiếu thần học tới bài giáo lý của Đức Gioan Phaolô II về tình yêu con người và thần học thân xác của ngài là điều đáng chú ý. Sự im lặng đáng chú ý này chứng tỏ sự mất trí nhớ liên quan đến giáo huấn về gia đình của một vị giáo hoàng được cho là có triều giáo hoàng thần học phong phú nhất về hôn nhân và gia đình trong lịch sử Giáo hội. Thật khó để không tin rằng việc né tránh và quên đi toàn bộ giá trị phu thê và bí tích của người nam và người nữ là một con đường tắt mục vụ để đạt đến một giải pháp đã được xác định trước về mặt ý thức hệ, và một giải pháp sẽ được tìm kiếm bằng bất cứ giá nào. Theo một số đề xuất mục vụ cho tương lai, những người ly dị và tái hôn phải thực hiện một thời gian sám hối lâu hơn để được rước lễ trở lại. Thực tế ngày nay là họ thường sống đời sống bí tích mà không bận tâm đến bất cứ yêu cầu nào của Giáo hội về việc sám hối, bởi vì khá thường xuyên họ đã nhận Bí tích Thánh Thể mà không cần chờ đợi sự cho phép chính thức hoặc sự chấp thuận của giáo quyền.
Chúng ta hãy rõ ràng: đây là những xúc phạm đến sự hiệp nhất của Chúa Kitô với Giáo hội. Chúng không chỉ tạo thêm sự chia rẽ giữa Cô Dâu và Chú Rể, mà còn đặt chính sự chia rẽ đó vào mối quan hệ giữa người phối ngẫu đã ly dị và Giáo Hội. Như vậy, xét cho cùng, không có gì thực sự mang tính mục vụ, trung thực hay nhân từ về những giải pháp như vậy.
Còn nữa