Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Meeting the world to convert the world”, nghĩa là “Gặp gỡ thế giới để hoán cải thế giới”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Trong một bài đăng vào tháng 6 trên trang web Where Peter Is, tác giả Steven Millies, sau khi trịnh trọng lên án “cuộc chiến tranh văn hóa vô nghĩa” và một lần nữa chỉ trích gay gắt những phê bình của Đức Cha Robert Barron đối với “Công Giáo màu be”, đã thông báo với chúng ta rằng chúng ta phải khôi phục lại tầm nhìn của Công đồng Vatican II về “một Giáo hội quyết tâm đối mặt với thế giới hiện đại”.

Tuy nhiên, như tôi đã chứng minh trong hai cuốn sách: The Irony of Modern Catholic History – Sự trớ trêu của lịch sử Công Giáo hiện đại; và cuốn To Sanctify The World – Để Thánh Hoá Thế Giới, Công đồng Vatican II không kêu gọi Giáo hội chỉ đơn thuần “gặp gỡ thế giới hiện đại”. Công đồng kêu gọi Giáo hội hoán cải thế giới hiện đại. Bằng cách nào? Thưa: Bằng cách đề cao Chúa Giêsu Kitô như biểu tượng của một chủ nghĩa nhân văn đích thực và Giáo hội bí tích như biểu tượng của cộng đồng nhân loại đích thực.

Ý định của Đức Giáo Hoàng Gioan 23 khi triệu tập Công đồng Vatican II khá rõ ràng qua bài phát biểu trên đài phát thanh của ngài vào ngày 11 tháng 9 năm 1962, một tháng trước khi Công đồng khai mạc.

Công tác chuẩn bị cho Công đồng Vatican II đã được tiến hành trong nhiều năm. Các giám mục đã đệ trình các nội dung chương trình nghị sự để thảo luận tại Công đồng. Các văn kiện dự thảo để các nghị phụ xem xét đã được chuẩn bị. Đền Thờ Thánh Phêrô đã được biến thành một hội trường khổng lồ, với mười lăm hàng ghế ngồi bọc nệm chiếm trọn gian giữa rộng lớn của đền thờ, và những chuẩn bị khác từ chiếc đĩa màu huyết dụ mà Đức Giáo Hoàng Lêô III đã dùng để trao vương miện cho Charlemagne “Hoàng đế Rôma Thần thánh” vào năm 800, cho đến chiếc bục bằng đồng đồ sộ của Bernini đặt trên bàn thờ chính của Đức Giáo Hoàng. (Thậm chí còn có những quán cà phê được dựng lên để những người kế vị các tông đồ có thể nghỉ ngơi; chúng nhanh chóng được đặt tên là “Bar-Jonah” và “Bar-Abbas”).

Đức Gioan 23 đã đọc bản thảo các văn kiện Công đồng sẽ được tranh luận và nhận thấy chúng phần lớn được viết bằng ngôn ngữ trừu tượng, thiếu nền tảng Kinh Thánh hay các tham chiếu đến các Giáo Phụ. Là một người kiên nhẫn, ngài bằng lòng để Công đồng tìm ra “tiếng nói” riêng của mình. Nhưng khi Công đồng tìm thấy tiếng nói đó, ngài muốn đặt ra một dấu ấn: Công đồng Vatican II sẽ không lặp lại những chân lý Công Giáo đã được xác lập như thể chỉ để lặp lại; Công đồng sẽ gắn kết những chân lý đã được xác lập với sứ mệnh truyền giáo.

Để nhấn mạnh quan điểm này, vị giáo hoàng lớn tuổi, người biết mình mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối, đã dành nhiều thời gian soạn thảo một bài phát biểu trong đó ngài sẽ nhấn mạnh lý do tại sao 2.500 giám mục đến Rôma — và ngài có thể hy vọng sẽ đưa ra một góc nhìn diễn giải quan trọng để đọc các tài liệu được chuẩn bị trước mà các giám mục sẽ xem xét.

Bài diễn văn phát thanh của Đức Gioan 23 tháng 9 năm 1962 là lời tuyên bố tiền Công đồng mang tính Phúc Âm và lấy Chúa Kitô làm trung tâm rõ ràng nhất về ý định của ngài đối với Công đồng Vatican II, đặt ra những chủ đề mà ngài sẽ khai triển trong bài diễn văn khai mạc hoành tráng của mình tại Công đồng. Đúng vậy, Giáo hội phải “gặp gỡ” “thế giới hiện đại”, như đã từng “gặp gỡ” thế giới thời trung cổ và thế giới cổ điển. Nhưng Giáo hội sẽ “gặp gỡ” thế giới hiện đại bằng điều gì?

Giáo Hội sẽ gặp gỡ thế giới hiện đại bằng lời tuyên bố của chính Chúa Kitô: “Nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em” (Lc 17,21). Và đó, như Đức Gioan 23 đã nói trong bài diễn văn trên đài phát thanh, phải là sứ điệp của Công đồng: “Cụm từ ‘Nước Thiên Chúa’ này diễn tả đầy đủ và chính xác công trình của Công đồng. ‘Nước Thiên Chúa’ có nghĩa là và thực chất là Giáo Hội của Chúa Kitô, duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền, là Giáo Hội mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, đã thiết lập và gìn giữ trong hai mươi thế kỷ qua, cũng như ngày nay. Người vẫn ban sự sống cho Giáo Hội bằng sự hiện diện và ân sủng của Người.”

Mục đích của mọi công đồng chung trước đây là nuôi dưỡng cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa: “Thực ra, một công đồng chung có mục đích gì nếu không phải là đổi mới cuộc gặp gỡ này với dung nhan của Chúa Giêsu phục sinh, vị vua vinh quang và bất tử, chiếu sáng toàn thể Giáo hội để cứu rỗi, mang lại niềm vui và sự huy hoàng cho nhân loại?”

Sau đó, Đức Gioan 23 đã định nghĩa một cách chính xác lý do của Công đồng Vatican II: “Điều quan trọng cơ bản là những gì được nói về lý do chính xác tại sao Công đồng được triệu tập: vấn đề ở đây là phản ứng của toàn thế giới đối với di chúc của Chúa mà Người để lại cho chúng ta khi Người phán: 'Hãy đi, dạy dỗ muôn dân…' Do đó, mục đích của Công đồng là truyền giáo”.

Khi tuyên bố Chúa Giêsu Kitô là câu trả lời cho câu hỏi về cuộc sống của mọi con người, và khi làm chứng qua các bí tích và các công việc bác ái rằng Vương quốc Thiên Chúa ở giữa chúng ta, Công Giáo là, đã là và sẽ luôn là một nền văn hóa đối lập cải cách, thách thức mọi nền văn hóa mà nó hiện diện để thực hiện những khát vọng cao quý nhất của mình thông qua tình bạn với Con Thiên Chúa nhập thể.

Điều đó chắc chắn gây ra sự xung đột, đôi khi rất nghiêm trọng. Sống trong sự xung đột đó không phải là “vô nghĩa” như Tiến sĩ Millies cả quyết. Nó là điều không thể tránh khỏi. Nhận ra điều đó chính là điều mà mục sư Lutheran và vị tử đạo Dietrich Bonhoeffer gọi là “cái giá của việc làm môn đệ Chúa Kitô”.

Source:First Things