
Tạp chí The Pillar, trong số ngày 8 tháng 8, 2025, cho hay: Tuần này, các Hội đồng Giám mục Châu Phi đã kết thúc phiên họp toàn thể toàn châu lục, trong đó họ thảo luận về một văn kiện mới về lịch sử và thực hành đa thê đương thời, cũng như việc chăm sóc mục vụ cho những người sống trong các mối quan hệ đa thê.
Bản dự thảo văn kiện, "Những Thách Thức Mục Vụ của Đa thê", đã được trình bày vào thứ Sáu tại phiên họp toàn thể lần thứ 20 của Hội nghị Chuyên đề các Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar, diễn ra tại Kigali, Rwanda.
Bản văn dài 29 trang trình bày các vấn đề văn hóa và pháp lý xoay quanh những trải nghiệm về chế độ đa thê ở châu Phi, cũng như giáo huấn của Giáo hội, "nhằm đánh giá một cách phê phán các thực hành mục vụ, cũng như luật pháp và thần học ủng hộ chúng."
Tài liệu cho biết: "Chế độ đa thê là một trong những chủ đề đặt ra một cách sâu sắc câu hỏi lớn về hội nhập văn hóa, vốn đã tồn tại trong tất cả các Kitô hữu trên thế giới kể từ khi Kitô giáo ra đời."
Vì vậy, "cần phải trả lời hai câu hỏi: Chăm sóc mục vụ nào có thể phù hợp để giúp những người đã gặp gỡ Tin Mừng khi đang trong mối quan hệ đa thê? Chúng ta có thể thực hiện chăm sóc mục vụ nào để giúp các Kitô hữu tuân thủ chế độ hôn nhân một vợ một chồng?"
Tài liệu không đề xuất các giải pháp mục vụ cụ thể để giải quyết chế độ đa thê trên khắp châu Phi — mặc dù đã đánh giá một số thực hành phổ biến nhất. Thay vào đó, bản văn được soạn thảo để làm khuôn khổ và cơ sở cho các cuộc thảo luận, cả tại Kigali tại hội nghị toàn thể SECAM và giữa các hội nghị thành viên khác nhau trên khắp lục địa.
Bản văn đưa ra cái nhìn phê phán về một số hoạt động mục vụ phổ biến hơn, bao gồm sự dung túng không chính thức đối với tình trạng đa thê ở một số nơi và việc tạo ra một loại quy chế "dạy đạo vĩnh viễn" cho những người dường như không thể thoát khỏi tình trạng đa thê.
Nhưng bản văn cũng đưa ra một lời phê phán mới về các quy định giáo luật hiện hành dành cho những người đàn ông đa thê xin rửa tội trong khi vẫn hợp thức hóa hôn nhân của họ với một vợ - đặc biệt lưu ý rằng việc áp dụng giáo luật trong bối cảnh văn hóa châu Phi thường bị coi là tiếp tay cho bất công và gây ra tai tiếng.
Mặc dù nghiêm túc xem xét nhu cầu đồng hành mục vụ, bản văn kết luận bằng lời khẳng định rằng mọi công cuộc truyền giáo và hoán cải đều đòi hỏi sự công bố Tin Mừng "triệt để" và cuối cùng là trải nghiệm "nhập thể, tử nạn và phục sinh", cả ở bình diện cá nhân và xã hội.
Vậy, bản văn chính xác đã nói gì? Theo The Pillar ở đây có những điểm sau:
Một tập tục truyền thống
Tài liệu của các giám mục lưu ý rằng ở một số vùng của châu Phi, chế độ đa thê rất phổ biến, gọi đây là "một trong những hình thức [xã hội] lâu đời nhất trong nhiều xã hội châu Phi", và tập tục này "hoàn toàn bình thường" trong "xã hội truyền thống".
Tài liệu ghi nhận những nguồn gốc và động lực xã hội và văn hóa khác nhau của tập tục này, bao gồm sự ủng hộ của một xã hội dựa trên thị tộc, nhu cầu về các gia đình mở rộng với nhiều con cái trong các xã hội du mục và nông nghiệp truyền thống, và thậm chí cả thực tế về việc có nhiều vợ như một vấn đề "danh dự".
Tài liệu lưu ý rằng không có điều nào trong số này là duy nhất ở châu Phi, mặc dù ở nhiều nơi khác, tập tục này thực sự đã biến mất. Tuy nhiên, mặc dù "thực tại này không chỉ có ở châu Phi, mà là phổ biến", tài liệu lưu ý rằng "tập tục đa thê rõ ràng nhất ở lục địa châu Phi, và chính tại đó, các Kitô hữu cảm thấy bị thách thức nhiều nhất". Ở nhiều nơi tại Châu Phi, tục đa thê vẫn còn phổ biến và thậm chí còn phát triển thành một cấu trúc dân sự, thường gây ra những phức tạp và thách thức mới về mặt pháp lý và mục vụ: “Trong đại đa số các xã hội Châu Phi, chỉ có người vợ đầu mới có tư cách là vợ”, tài liệu cho biết.
“Tuy nhiên, quy định pháp lý truyền thống này đã phát triển trong các xã hội Hồi giáo, nơi chế độ đa thê đã trở thành luật. Trong bối cảnh này, việc loan báo Tin Mừng đã nhanh chóng gặp phải tình huống những người xin chịu phép rửa tội sống trong hoàn cảnh đa thê”.
Tài liệu cũng lưu ý rằng kinh nghiệm của chủ nghĩa thế tục hóa theo kiểu phương Tây cũng đang tạo ra những vấn đề xã hội và thách thức mục vụ mới từ “các hình thức đa thê hậu hiện đại khác và hiện tượng ‘đa thê’ đang gia tăng, đặc biệt là ở Châu Mỹ, đang tìm kiếm sự hợp pháp và tình trạng của những người đa thê Châu Phi có thể là cái cớ”.
“Thật vậy, những thay đổi về văn hóa xã hội ở Châu Phi rất đáng kể. Phi thực dân hóa, gần như tàn bạo như chế độ thực dân, đã góp phần vào điều này. Tài liệu cho biết: Do đó, môi trường truyền thống đã sụp đổ. Với sự sụp đổ về mặt đạo đức, hiện nay chúng ta nhận thấy sự mất lòng tin thực sự vào các thể chế và giá trị truyền thống, cả về kinh tế xã hội, văn hóa, chính trị và tôn giáo.”
Không hề biến mất, Tài liệu cho thấy chế độ đa thê đang chứng tỏ khả năng thích nghi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi tại châu Phi.
Tài liệu nhận định: “Mặc dù hiện đại hóa, chuyển đổi nhân khẩu học và sự hội tụ sang mô hình gia đình hạt nhân có thể gợi ý về sự biến mất dần dần của chế độ đa thê, nhưng tính bền vững của nó lại cho thấy sức nặng của các truyền thống và quy tắc xã hội. Thật vậy, ở một quốc gia mà ly hôn bị coi là một thảm họa xã hội, và việc phụ nữ độc thân gần như không thể chấp nhận được, thì chế độ đa thê, đối với một số người, là con đường dẫn đến sự cứu vớt.”
Tổng cộng, 31 quốc gia châu Phi công nhận chế độ đa thê hợp pháp, dưới hình thức này hay hình thức khác, và do đó, đây không phải là một thực tại mà Giáo hội có thể phớt lờ hoặc mong đợi nó tự biến mất.
Cách tiếp cận theo tinh thần đồng nghị - Kinh Thánh
Do tập tục và thực tế pháp lý phổ biến của chế độ đa thê, tài liệu cho biết: “Trong tiến trình đồng nghị của Giáo hội hoàn vũ, SECAM và các Kitô hữu châu Phi đã được yêu cầu xem xét vấn đề này một cách sâu sắc và đưa ra các đề xuất mục vụ phù hợp dựa trên kinh nghiệm cụ thể của họ, nhưng có thể truyền cảm hứng cho các cộng đồng khác ở các nơi khác trên thế giới.”
Lấy điểm khởi đầu là thực hành “nhìn-phán-hành [see-judge-act]”, tài liệu cho biết cách tiếp cận theo tinh thần đồng nghị đối với thực tại chế độ đa thê được xem xét trên cơ sở “lắng nghe-thấu hiểu-tham gia”.
“Để soi sáng sự phân định mục vụ của chúng ta, chúng ta phải để Lời Chúa thách thức bản thân”. Tài liệu cho biết: “Nó không cung cấp cho chúng ta những câu trả lời có sẵn, nhưng nó truyền cảm hứng cho chúng ta”, đồng thời lưu ý đến vô số ví dụ về chế độ đa thê trong Cựu Ước.
“Tuy nhiên,” tài liệu kết luận: “mặc dù có xu hướng đa thê mạnh mẽ này, chế độ một vợ một chồng vẫn được đề cao.”
Tài liệu nhận xét: “Thiên Chúa đã tạo ra người nam và người nữ, Ađam và Evà. Dụ ngôn về sự sáng tạo này có giá trị mô hình. Hơn nữa, các tổ phụ dòng dõi Seth là những người theo chế độ một vợ một chồng,” và “việc rao giảng của các tiên tri dẫn đến sự tôn trọng ngày càng tăng đối với phụ nữ, tượng trưng cho con người trong mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Luật Kinh Thánh đảm bảo sự thăng tiến của họ.”
“Cuối cùng,” tài liệu lưu ý: “thần học Giao Ước đề cao hình ảnh hôn nhân một vợ một chồng: Israel là người phối ngẫu duy nhất của Thiên Chúa Duy Nhất.”
Tài liệu cho biết: “Kết thúc việc lắng nghe kinh nghiệm Kinh Thánh này, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa Cha là một người thầy, người dần dần giáo dục con cái của mình”.
“Đây là trường hợp của hôn nhân và các hình thức khác nhau của nó. Người cho phép chế độ đa thê tiếp diễn qua nhiều thế kỷ. Nhưng, qua Con của Người, Người cho thấy: chế độ đa thê không phải là lý tưởng của đôi vợ chồng mà Thiên Chúa mong muốn. Theo tinh thần của những phản đề trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giêsu nhắc lại lý tưởng về hôn nhân một vợ một chồng mà Đấng Tạo Hóa mong muốn: một người nam và một người nữ. Tài liệu viết: Khi áp dụng vào việc chăm sóc mục vụ cho những người sống trong hoàn cảnh đa thê, đặc biệt trong các bối cảnh xã hội mà điều này phổ biến và thậm chí được pháp luật công nhận là một chuẩn mực có thể chấp nhận được, “Giáo Hội, với tư cách là người thầy, và do đó là nhà sư phạm, dưới ánh sáng Lời Chúa, phải hướng dẫn người nam hoặc người nữ sống trong hoàn cảnh đa thê tự đặt câu hỏi về sự liên quan trong lựa chọn của họ”.
Tài liệu khuyến cáo: “Thật vậy, việc có chung cảm xúc giữa nhiều người vợ hoặc nhiều người chồng có thể không phải là một nguồn gây khó chịu về mặt tâm lý hay sao? Tương tự như vậy, một người nam hoặc người nữ có thể sống trong sự hiệp thông sâu sắc với một người vợ hoặc người chồng không hoàn toàn thuộc về họ hay không? Liệu có nguy cơ tạo ra một kiểu ngoại tình trong hôn nhân như một chuẩn mực sống hay không? Lựa chọn theo Chúa Kitô phải rõ ràng, không thỏa hiệp và đòi hỏi phải vác thập giá mình và thực sự cam kết thúc đẩy cho bản thân và cho người khác một lối sống và tư duy giải phóng, phù hợp với Lời Chúa”.
Những cân nhắc thực tế
Mặc dù lưu ý rằng những nhà truyền giáo Kitô giáo đầu tiên đến Châu Phi đã kiên quyết lên án chế độ đa thê và khẳng định rằng việc hoán cải sang chế độ một vợ một chồng là bản chất của việc hoán cải sang Kitô giáo, bản dự thảo cũng lưu ý rằng “việc Kitô giáo hóa và Tây phương hóa gần như song hành với nhau”.
Nhưng, theo tài liệu, ngay cả khi đó “vẫn có một nỗi sợ hãi thực sự về việc để cấu trúc gia đình rơi vào một hình thức bất ổn”, “chưa kể đến việc ảnh hưởng đến quyền tự do và phẩm giá của phụ nữ”, điều này có thể đi kèm với sự biến động toàn diện của trật tự xã hội nếu không có một giải pháp thay thế thống nhất.
Theo bản văn, những lo ngại tương tự này vẫn tiếp tục diễn ra ngay cả trong hậu bán thế kỷ 20, dẫn đến sự ngần ngại đề cập trực tiếp đến vấn đề này trong các văn kiện của Giáo hội, ngay cả trong tông huấn sau Thượng hội đồng về Giáo hội tại Châu Phi năm 1994.
Đến năm 2014, và trong bối cảnh chuẩn bị cho Thượng hội đồng về Gia đình, SECAM khuyến nghị cần quan tâm nhiều hơn đến các cá nhân và hoàn cảnh của họ.
Khi làm như vậy, các giám mục nhắc lại rằng “thực hành hiện đang được đề xuất [trong giáo luật] là chọn một người vợ. Hơn nữa, [vào thời điểm đó], [đã] khuyến nghị cần quan tâm nhiều hơn đến những người trải qua chế độ đa thê: một số trường hợp sẽ đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt và can đảm từ các mục tử được kêu gọi, theo gương Tông đồ Phaolô, thực thi quyền năng mà Chúa Kitô đã trao phó cho họ để phân định và tìm ra những giải pháp thích hợp hơn cho những tình huống này.”
Bản văn giải thích: “Tuy nhiên, theo tinh thần của Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris Laetitia, trọng tâm không được đặt vào luật lệ hay hình phạt, mà là vào sự đồng hành làm chứng cho lòng nhân từ của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu và Giáo hội của Người muốn làm chứng.”
Bản dự thảo bản văn đã xác định ba thực hành mục vụ cơ bản thường được áp dụng nhất để giải quyết tình trạng đa thê ở Châu Phi. Dự thảo không xác nhận bất cứ thực hành nào trong số đó; thay vào đó, nó trình bày chúng như những thực tại mà các giám mục cần đánh giá và thảo luận.
Thực hành đầu tiên trong số này là việc người đàn ông chuyển sang chế độ một vợ một chồng thông qua việc “lựa chọn người vợ đầu tiên hoặc người vợ được yêu thích nhất”, trong đó một sự kết hợp bí tích được khẳng định hoặc được thiết lập nhưng không xóa bỏ các yêu cầu về công lý và sự chăm sóc đối với những “người vợ” và con cái khác.
Thực hành thứ hai đề xuất trao cho người theo chế độ đa thê một quy chế “dự tòng vĩnh viễn”.
Bản bản cho biết: “Trong trường hợp này, việc đồng hành được thực hiện thông qua việc đào tạo dự tòng, không kết thúc bằng bí tích Rửa tội, mà bằng việc cấp một văn kiện chính thức công nhận cá nhân là ứng viên cho phép rửa tội. Theo nghĩa này, người đó được chấp nhận vào cộng đồng và vẫn là một dự tòng, do không thể phá vỡ các ràng buộc hôn nhân của chế độ đa thê và các nghĩa vụ đối với con cái và vợ mà những ràng buộc này bao hàm.”
Tất nhiên, vấn đề rõ ràng với cách tiếp cận này là “người dự tòng vĩnh viễn” vẫn bị loại trừ khỏi việc tham gia các bí tích trong Giáo hội. “Mặt khác,” tài liệu lưu ý rằng: “gia đình đa thê này có thể xin rửa tội cho con cái, lãnh nhận các bí tích do Giáo hội ban hành và sống đời sống chứng tá Kitô giáo.”
Mặc dù khái niệm “người dự tòng vĩnh viễn” rõ ràng đặt ra những câu hỏi và lo ngại, nhưng bản văn lưu ý rằng việc từ chối tiếp xúc mục vụ với người đa thê trên thực tế sẽ đóng sầm cánh cửa truyền giáo và “rửa tội cho người đa thê, người sẽ tiếp tục duy trì tình trạng này, sẽ có vẻ như hợp pháp hóa sự bất thường này và có thể làm sai lệch hoặc thậm chí làm giảm giá trị của phép rửa tội, vốn là bí tích đầu tiên của sự khai tâm Kitô giáo.”
Tài liệu cũng xem xét ý tưởng cho rằng phép rửa tội có thể được ban theo cách “dự đoán trước” cho những người dự tòng đa thê đang nỗ lực để hợp thức hóa hoàn cảnh của họ, nhưng kết luận rằng “làm như vậy sẽ tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết, đặc biệt là khi xét đến các quyền phát sinh từ phép rửa tội, bao gồm quyền lãnh nhận các bí tích khác.”
Bản văn viết: “Hơn nữa, sẽ không công bằng nếu hàng ngàn người đã chịu phép rửa tội, những người đã chấp nhận Tin Mừng và từ bỏ chế độ đa thê, đánh dấu sự hoán cải và đức tin của họ nơi Chúa Kitô. Những người chưa chịu phép rửa tội liên tục được khuyến khích chuẩn bị đón nhận Chúa Kitô và Lời Người cho một cuộc sống mới, bao gồm việc lựa chọn từ bỏ chế độ đa thê.”
Thực hành thứ ba được bản văn nhấn mạnh là việc rửa tội cho người vợ đầu tiên của mối quan hệ đa thê, và khi làm như vậy, về cơ bản, coi cô ấy như một “nạn nhân” của những cuộc kết hợp ngoại tình sau này.
Theo bản văn, “vì người đã trở lại đạo không bị buộc phải chấm dứt quan hệ hôn nhân, nên một con đường mới mở ra cho họ. Giờ đây, họ có trách nhiệm và sứ mệnh quan trọng là sống theo đức tin trong một môi trường gia đình chưa hoán cải.”
Tuy nhiên, bản thảo bản văn của các giám mục cũng lưu ý đến một thực hành phổ biến thứ tư, đó là một loại “chế độ đa thê che đậy” được thực hành và dung túng, và “tương ứng với hành vi dễ dãi ở những người đàn ông hoặc phụ nữ có người yêu, những người mà họ duy trì mối quan hệ tự do.”
Trong trường hợp này, “tiến trình khai tâm Kitô giáo sau đó được tổ chức và hướng đến không phải cặp đôi, mà là người xin rửa tội, dẫn đến việc rửa tội cho một người phụ nữ có con nhưng không có chồng.”
Mặc dù những hoàn cảnh mà sự khoan dung thực tế này tìm cách giải quyết là đủ thực tế, tài liệu cho biết, “tình huống này gây hại cho xã hội và Giáo hội, ngay cả khi nó không đặt ra vấn đề tín lý.”
Những cân nhắc về giáo luật
Một số thực hành mục vụ liên quan đến chế độ đa thê nêu ra những vấn đề giáo luật rõ ràng, mà bản văn của các giám mục đã đề cập chi tiết.
Ngoài việc xem xét việc thiếu cơ sở tín lý hoặc giáo luật cho một “người dự tòng vĩnh viễn”, tài liệu cũng xem xét ý tưởng cho rằng việc rửa tội có thể được thực hiện theo cách “dự đoán trước” cho những người dự tòng đa thê đang nỗ lực để hợp thức hóa hoàn cảnh của họ, nhưng kết luận rằng “làm như vậy sẽ tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết, đặc biệt là khi xem xét các quyền phát sinh từ phép rửa tội, bao gồm quyền lãnh nhận các bí tích khác.”
Bản văn viết: “Hơn nữa, sẽ không công bằng nếu hàng ngàn người đã chịu phép rửa tội, những người đã chấp nhận Tin Mừng và từ bỏ chế độ đa thê, để đánh dấu sự trở lại và đức tin của họ nơi Chúa Kitô. Những người không chịu phép rửa tội luôn được khuyến khích chuẩn bị đón nhận Chúa Kitô và Lời Người cho một cuộc sống mới, bao gồm việc lựa chọn từ bỏ chế độ đa thê.”
Khi giải quyết các trường hợp một hoặc nhiều người trong tình trạng đa thê đến xin rửa tội và muốn hợp thức hóa hôn nhân của họ, Bộ Giáo luật có một cơ chế pháp lý rõ ràng để giải quyết tình huống này, điều mà bản văn của các giám mục đã lưu ý, đồng thời đưa ra những phê phán riêng khi áp dụng trong bối cảnh châu Phi.
Vấn đề được Đức Giáo Hoàng Phaolô III đề cập đến lần đầu tiên vào năm 1537, tiếp theo là Đức Giáo Hoàng Gregory XIII 34 năm sau đó. Cả hai vị giáo hoàng đã đưa những cách giải quyết vấn đề của mình vào các điều khoản mở rộng hơn dành cho các nhà truyền giáo.
Tiền đề cơ bản của Đức Giáo Hoàng Phaolô III vẫn là tiền đề cơ bản mà Giáo hội vẫn tiếp tục:
“Về hôn nhân của họ, Chúng tôi ra sắc lệnh rằng điều này cần được tuân thủ: Những người trước khi trở lại đạo đã có nhiều vợ, theo phong tục của họ, và không nhớ mình đã lấy ai trước, thì khi trở lại, hãy lấy từ một trong số họ, tùy ý họ, và nên kết hôn với người vợ đó bằng những từ ngữ liên quan đến hiện tại theo cách thông thường; nhưng những người còn nhớ mình đã lấy ai trước thì nên giữ lại người đó và đuổi những người khác đi.”
Giả định giáo luật vẫn nghiêng về “người vợ đầu tiên”, nhưng khi có trường hợp nghi ngờ, có khả năng một người vợ “được yêu thích” sẽ được chọn.
Bộ Giáo luật năm 1917 đã đưa ra những quy định này cho “người Ấn Độ” áp dụng bất cứ nơi nào “cùng hoàn cảnh” khiến chúng trở nên phù hợp.
Bộ Giáo luật năm 1983 đã tinh tế hơn một chút, đưa ra lựa chọn một người vợ khác ngoài người vợ đầu tiên nếu việc tiếp tục chung sống với người vợ đầu tiên sẽ “khó khăn”, theo ngôn ngữ của Bộ Giáo luật, nhưng bổ sung thêm nghĩa vụ chu cấp cho nhu cầu của những người vợ khác hiện đã bị ruồng bỏ theo các chuẩn mực “công lý, bác ái Kitô giáo và công bằng tự nhiên”, đồng thời lưu ý đến “các điều kiện đạo đức, xã hội và kinh tế của địa điểm và con người”.
Điều 1148 Giáo luật giải thích rằng “khi chịu phép rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo, một người đàn ông chưa rửa tội có nhiều người vợ chưa rửa tội cùng một lúc có thể giữ lại một trong số họ sau khi những người khác đã bị ruồng bỏ, nếu anh ta thấy khó khăn khi tiếp tục chung sống với người vợ đầu tiên. Điều tương tự cũng áp dụng cho một phụ nữ chưa rửa tội có nhiều chồng chưa rửa tội cùng một lúc.”
Giáo luật bổ sung rằng “cân nhắc đến các điều kiện đạo đức, xã hội và kinh tế của địa phương và của con người, Đấng bản quyền địa phương phải lo liệu sao cho nhu cầu của người vợ đầu tiên và những người vợ khác bị bỏ rơi được đáp ứng đầy đủ theo các chuẩn mực công lý, bác ái Kitô giáo và sự công bằng tự nhiên.”
Tất nhiên, tất cả những điều đó đều dựa trên giả định này: người đàn ông có nhiều “vợ” đang tự mình gia nhập đức tin, và sẽ bước vào một cuộc hôn nhân mới, không bí tích với người vợ chưa rửa tội mà anh ta lựa chọn. Nếu một người đàn ông và một trong những “vợ” của mình cùng nhau trở lại đạo, dự định hình thành một sự kết hợp bí tích, và không ai trong số những người còn lại muốn được rửa tội, thì một phép tính hơi khác có thể được áp dụng.
Trong những trường hợp như vậy, một sự kết hợp hợp lệ (theo quan điểm của luật pháp), không bí tích giữa người đàn ông và người vợ đầu tiên (chưa rửa tội) có thể bị hủy bỏ để tạo điều kiện cho việc hình thành một sự kết hợp bí tích mới với một trong những người kia nếu cả hai đều chịu phép rửa tội (và người vợ đầu tiên không có ý định trở lại Kitô giáo).
Tuy nhiên, bản thảo của các giám mục châu Phi lưu ý đến sự cần thiết phải “đánh giá lại về mặt thần học cần thiết” về thực hành giáo luật trong một số trường hợp.
Bản dự thảo ghi nhận: “Trong thực tại mục vụ, chính những người vợ đầu tiên, những người đã bị áp đặt sự tha hóa của hôn nhân tự nhiên, là những người bị tổn hại nhiều nhất” khi trao cho người đàn ông trở lại đạo quyền lựa chọn thực tế nên giữ lại người vợ nào.
Bản dự thảo cho biết: "Việc có thể chọn một người vợ cho người chồng đa thê xin rửa tội đã là lý do khiến nhiều người đàn ông bỏ rơi người vợ đầu tiên của mình, thích kết hôn với một người phụ nữ trẻ hơn trong hôn nhân Kitô giáo vì những lý do chắc chắn không phải lúc nào cũng liên quan đến đức tin".
Mặc dù thừa nhận rằng giáo luật có quy định cho phép người chồng vẫn chu cấp cho những người vợ khác, bản dự thảo cho biết rằng "các biện pháp đi kèm với thực hành này là không đủ bởi vì, trên thực tế, chúng chỉ tính đến nhu cầu vật chất của các bên liên quan trong tình huống này. Khía cạnh tâm lý và cảm xúc bị gạt sang một bên, ngay cả khi [giáo luật] đề cập đến một 'điều kiện đạo đức'".
Bản dự thảo của các giám mục cũng nêu lên những lo ngại về quy định giáo luật cho phép người đàn ông chọn một người vợ khác ngoài người vợ đầu tiên, vốn đặc thù trong bối cảnh văn hóa châu Phi, lưu ý rằng "điều này liên quan đến quan niệm của người châu Phi về hôn nhân, không chỉ là một hợp đồng giữa một người nam và một người nữ, mà còn liên quan đến toàn thể cộng đồng người sống, tổ tiên và các thế hệ tương lai."
Bản văn viết: “Mối liên kết này bao gồm vai trò của người vợ đầu tiên của một người theo chế độ đa thê, được xã hội coi là mẹ của tất cả những người vợ được kết hôn trong gia đình.
Theo quan điểm này, trong việc chọn người vợ đầu tiên, mặc nhiên có nghĩa vụ công lý đối với những người phụ nữ khác và con cái của họ. Thông thường, các cuộc hôn nhân kế tiếp của một người theo chế độ đa thê được thực hiện với sự đồng ý của người vợ đầu tiên, điều này mang lại cho bà địa vị độc nhất là mẹ và hoàng hậu trong gia đình.
“Thật khó để tháo gỡ tất cả các mối quan hệ được thiết lập giữa các gia đình và dòng tộc, vào thời điểm ly thân, làm giảm khả năng cung cấp hoặc không cung cấp các nhu cầu vật chất của người phụ nữ không được giữ lại và các con của cô ấy”, bản dự thảo cho biết, đồng thời gọi “một kịch bản bất công nghiêm trọng” là người đàn ông “muốn trở lại đạo sang Kitô giáo bằng cách từ bỏ người mẹ của các con mình, lấy một cách biện minh mới cho đức tin và lối sống của mình”.
Tài liệu cho biết: “Cần phải xem xét lại cách xử lý các trường hợp người theo chế độ đa thê yêu cầu được gia nhập cộng đồng Kitô giáo. Do đó, điều quan trọng là phải tìm kiếm một hướng đi có tính đến tầm quan trọng của việc gìn giữ các mối quan hệ trước đây giữa vợ chồng, từ đó bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất trong mối quan hệ: vợ và con cái.”
Những căng thẳng cố hữu
Mặc dù bản văn phê phán hiệu quả hơn là tán thành các thực hành mục vụ hiện có, nhưng bản dự thảo phản ảnh sự căng thẳng cốt lõi giữa việc cung cấp dịch vụ chăm sóc mục vụ liên tục, thậm chí là mở mà không làm ảnh hưởng đến "tính triệt để của Tin Mừng" hoặc thúc đẩy sự khoan dung đối với các tình huống bất thường.
"Vấn đề cơ bản đối với việc chăm sóc mục vụ kể từ khi Giáo hội khởi đầu là làm thế nào để trình bày đức tin trong một bối cảnh xã hội và văn hóa nhất định", bản văn cho biết, đồng thời lập luận rằng sự gần gũi, lắng nghe và đồng hành mục vụ không phải là những khái niệm trái ngược với việc công bố đầy đủ và không khoan nhượng giáo huấn của Giáo hội, mà đúng hơn là thiết yếu để thực hiện điều đó một cách hiệu quả.
Bản văn lập luận: "Bằng cách gần gũi và lắng nghe, [người khác] có thể nhận ra rằng chế độ đa thê không phải là một điều kiện chuẩn mực, ngay cả trong các xã hội nơi nó được hợp pháp hóa. Sự đồng hành sẽ duy trì gia đình trong mô hình đa thê của nó, bởi vì vợ chồng không thể thoát khỏi những ràng buộc đã có, nhưng nó sẽ cho phép hiểu rõ hơn về ơn gọi hôn nhân, về khía cạnh của nó gắn liền sâu sắc với mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội, về Thiên Chúa và nhân loại, và về tính chất ngôn sứ của nó."
“Theo nghĩa này,” bản văn viết: “sẽ dễ hiểu việc một số thành viên trong gia đình đáp ứng các điều kiện để hội nhập hoàn toàn vào cộng đồng Kitô giáo thông qua việc lãnh nhận các bí tích (người vợ đầu tiên và những đứa con là thành viên của gia đình này), trong khi người đàn ông đa thê và những người phụ nữ khác sẽ được mời gọi sống đức tin của họ một cách sám hối và với hy vọng được hội nhập hoàn toàn vào cộng đồng các môn đệ của Chúa Giêsu.”
Tài liệu kết luận bằng cách lưu ý rằng việc truyền giáo đích thực luôn bắt nguồn từ việc trình bày sự nhập thể, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, dẫn đến sự biến đổi cuối cùng toàn bộ cuộc sống của người xin phép rửa tội.
Bản văn cho biết, sự hội nhập văn hóa đích thực phản ảnh chính động lực này, bao gồm “sự nhập thể trong các nền văn hóa, sự đối đầu quyết liệt với chúng và cái chết của một số yếu tố của chúng, và cuối cùng là sự phục sinh, tức là sự biến hình của chúng từ bên trong.”