Một Số Gợi Ý Thực Tế Hoặc Yêu Cầu Ngỏ Với Giáo Hội Công Giáo
144. Trong suốt các cuộc đối thoại đại kết hoặc phản hồi cho Ut unum sint liên quan đến quyền tối thượng, nhiều khuyến nghị khác nhau được đưa ra cho tất cả các cộng đồng Kitô giáo khác nhau. Với niềm tin rằng bổn phận đại kết đầu tiên của người Công Giáo là “kiểm tra lòng trung thành của chính họ đối với ý muốn của Chúa Kitô đối với Giáo hội và theo đó thực thi mạnh mẽ nhiệm vụ đổi mới và cải cách” (UR 4), sau đây là một số gợi ý hoặc yêu cầu thực tế ngỏ với Giáo Hội Công Giáo, để quyền tối thượng của giáo hoàng có thể đạt được sự tiếp nhận đại kết lớn hơn.
4.1. Một Giải Thích Mới Về Vatican I
145. Một số cuộc đối thoại thần học nhấn mạnh giá trị của việc ‘tiếp nhận lại’ các tín lý của Giáo hội được phát biểu bằng những thuật ngữ gắn liền chặt chẽ với một bối cảnh chuyên biệt. Quá trình này được ARCIC mô tả như sau:
“Có thể có sự tái khám phá các yếu tố đã bị bỏ quên và một sự ghi nhớ mới mẻ về những lời hứa của Chúa, dẫn đến sự đổi mới của lời ‘Amen’ của Giáo hội. Cũng có thể có sự sàng lọc những gì đã được tiếp nhận vì một số công thức của Truyền thống được coi là không đầy đủ hoặc thậm chí gây hiểu lầm trong một bối cảnh mới. Toàn bộ quá trình này có thể được gọi là sự tiếp nhận lại” (ARCIC 1999, 25; xem cũng ở trên §59).
146. Quá trình ‘tiếp nhận lại’ này đã được kêu gọi liên quan đến giáo huấn của Công đồng Vatican I. Đối thoại Luther-Công Giáo tại Hoa Kỳ xác định quá trình này là ‘diễn giải lại’ và nói về “khả thể cuối cùng tìm ra những cách diễn đạt mới trung thành với ý định ban đầu và thích ứng với bối cảnh văn hóa đã thay đổi. Quá trình tái diễn giải này đã diễn ra theo cách mà học thuyết về ơn bất khả ngộ của giáo hoàng được xử lý tại Công đồng Vatican II, đưa những khía cạnh mới lên hàng đầu” (L–C US 1978, 19). Một nhu cầu được phát biểu là “đặt tín lý về ơn bất khả ngộ vào các phạm trù thần học lời hứa, tín thác và hy vọng thay vì vào các phạm trù tài phán luật lệ, nghĩa vụ và sự vâng phục” (id., 5).
147. Nhóm Dombes, “với tinh thần metanoia [hoán cải]”, đã bày tỏ “hy vọng rằng cách diễn đạt tín điều của thừa tác vụ này [của giám mục Rôma], đã được đưa ra kể từ Công đồng Vatican I và đã xúc phạm sâu sắc các cảm quan Kitô giáo của những người anh em ly khai của chúng ta từ phương Đông và phương Tây, tạo ra một bình luận chính thức và được cập nhật, thậm chí là một sự thay đổi về từ vựng, tích hợp nó vào một giáo hội học hiệp thông” (Dombes 1985, 149). Sau đó, nó cũng kêu gọi một “cách diễn đạt lại tín điều về ơn bất khả ngộ của giáo hoàng”, gợi ý rằng “việc tái cấu trúc này có thể được thực thi trong khuôn khổ của một công đồng tương lai, các đại biểu của các Giáo hội khác lúc đó đóng vai trò đầy đủ thuộc về họ” (Dombes 2014, 476).
148. Tương tự như vậy, những người Công Giáo và Luther ở Đức đã bày tỏ hy vọng về “một cách diễn giải chính thức” về Công đồng Vatican I, trong đó “quyền tối thượng tài phán chỉ có vị trí trong cấu trúc hiệp thông của giáo hội” và “quyền bất khả ngộ của giáo hoàng chỉ có thể được thực thi trong sự trung thành tuyệt đối với đức tin tông truyền (Kinh thánh)” (L–C Germ 2000, 198).
4.2. Một Sự Thực Thi Khác Biệt Quyền Tối Thượng Của Giám Mục Rôma
149. Giám mục Rôma đồng thời hoạt động như giám mục của một giáo phận địa phương, như là giáo chủ của Giáo hội phương Tây hoặc La tinh và như là một thừa tác viên của hiệp nhất ở bình diện hoàn cầu. Một số cuộc đối thoại đại kết kêu gọi phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của ngài, đặc biệt giữa thừa tác vụ thượng phụ của ngài trong Giáo hội phương Tây và thừa tác vụ tối thượng của ngài về sự hiệp nhất trong sự hiệp thông của các Giáo hội (xem thêm chú thích 25 ở trên). Lời kêu gọi này nhằm phân biệt rõ ràng hơn các vai trò phù hợp với bản chất và mối quan hệ riêng biệt của quyền tối thượng và tính đồng nghị ở mỗi bình diện giáo hội, được một số cuộc đối thoại ghi nhận (xem ở trên §82).
150. Cuộc đối thoại Chính thống giáo-Công Giáo Pháp đã kêu gọi vào năm 1991 việc “thực thi phân biệt thẩm quyền của Giám mục Rôma”, “tùy thuộc vào việc nó liên quan đến các Giáo hội phương Tây hay Giáo hội hoàn vũ” (O–C Fr 1991, tr. 119). Khi suy nghĩ về cách quyền tối thượng có thể được thực thi trong một Giáo hội tái hiệp nhất, Nhóm Thánh I-rê-nê tuyên bố: “Có thể đạt được sự hiểu biết tốt hơn khái niệm Công Giáo về quyền tối thượng ở bình diện hoàn vũ thông qua sự phân biệt rõ ràng hơn giữa vị trí độc nhất của Giáo hoàng trong Giáo Hội Công Giáo và chức năng có thể có của ngài với tư cách là người đứng đầu trong cộng đồng Kitô giáo rộng lớn hơn” (Thánh I-rê-nê 2018, 14.11). Tương tự như vậy, cuộc đối thoại quốc tế Chính thống giáo-Công Giáo nhận thấy rằng “Cũng có một sự sẵn lòng phân biệt những gì có thể được gọi là thừa tác vụ thượng phụ của giáo hoàng trong Giáo hội phương Tây hoặc La tinh với việc phục vụ tối thượng của ngài liên quan đến sự hiệp thông của tất cả các Giáo hội, mang đến những cơ hội mới cho tương lai” (O C 2023, 5.2).
151. Theo cùng một tinh thần, một số cuộc đối thoại thần học với các Cộng đồng Kitô giáo phương Tây đề cập đến nhu cầu thực thi một cách khác biệt thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Ví dụ, cuộc đối thoại quốc tế Giám lý-Công Giáo nêu rằng “từ lịch sử có thể thấy rằng một số chức năng hiện tại do giám mục Rôma thực thi liên quan đến tòa giáo phận của ngài hoặc thừa tác vụ của ngài với tư cách là Thượng phụ của Giáo hội La tinh và không liên quan đến yếu tính của thừa tác vụ hiệp nhất phổ quát của ngài” (MERCIC 1986, 59). Phản hồi của Hội đồng các Giáo hội Anh và Ireland đối với Ut unum sint (1997) khẳng định rằng có "một sự phân biệt cần được thực thi giữa quyền tối thượng và quyền tài phán phổ quát hoặc giữa quyền tối thượng và quyền tài phán đối với 'Tòa Thượng phụ phương Tây'" (4). Nhóm Dombes cũng giải quyết lập luận này, khẳng định: "Nghiên cứu lịch sử đã chỉ ra rằng do sự rạn nứt giữa Đông và Tây, Giáo Hội Công Giáo đã trùng hợp với Tòa Thượng phụ phương Tây cổ thời hoặc Giáo hội La tinh. Vì lý do đó, Giám mục Rôma đã thực thi một cách thực tế có tính lẫn lộn một trách nhiệm kép trong Giáo hội đó, cụ thể là thừa tác vụ hiệp thông và thừa tác vụ Thượng phụ phương Tây, để có lợi cho sự tập trung hóa ngày càng tăng.
Ngoài ra, nỗ lực truyền giáo mạnh mẽ của Giáo hội La tinh đã mở rộng quyền tài phán của Tòa Thượng phụ phương Tây trên hầu như toàn bộ bề mặt trái đất, mà không cân nhắc đến hậu quả của việc đó. ‘Sự phát triển bất thường’ này đã làm tổn hại đến hình ảnh của giáo hoàng ‘bằng cách khiến nó bị nhầm lẫn với sự phình to khủng khiếp của những gì mà thực tế không phải vậy’ [L. Bouyer, L’Église de Dieu, Paris, Cerf, 1970, tr. 555]. Chừng nào sự khác biệt giữa hai chức năng này không được thể hiện rõ trong tổ chức sống động của Giáo hội, thì sự cần thiết của thừa tác vụ hiệp thông do Giám mục Rôma thực thi sẽ không được các anh em Chính thống giáo, Anh giáo và Tin lành của chúng ta chấp nhận. Chỉ có sự tản quyền nội bộ của Giáo Hội Công Giáo mới có thể mang lại cho họ một góc nhìn cụ thể về loại cam kết mà họ sẽ thực thi bằng cách làm mới mối liên kết hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo” (Dombes 1985, 142–143). Cuộc đối thoại Luther-Công Giáo Đức, bổ sung vấn đề về Giáo hoàng là “Nguyên thủ quốc gia” và những hàm ý chính trị-ngoại giao của nó, đi xa hơn, kêu gọi “một sự dị biệt hóa giữa các thừa tác vụ hiệp nhất trong con người của giáo hoàng: Giám mục Rôma, mục tử của toàn thể Giáo hội, người đứng đầu Hợp đoàn Giám mục, thượng phụ Phương Tây, Giáo chủ Ý đại lợi, Tổng giám mục và trưởng giáo đô của giáo tỉnh Rôma, quốc trưởng thị quốc Vatican” (L–C Germ 2000, 200).
152. Phù hợp với đề xuất này về việc thực thi một cách dị biệt hóa quyền tối thượng của Giám mục Rôma, Nhóm Dombes đã bày tỏ mong muốn “việc thực thi thừa tác vụ của giám mục Rôma trong Giáo hội đặc thù của ngài [Giáo phận Rôma] được tăng cường. Một giáo hoàng đảm nhận nhiều hơn trách nhiệm giám mục của mình khi cần thiết và có khả năng thực thi trách nhiệm đó chắc chắn có thể góp phần tạo nên sự thay đổi lớn trong hình ảnh của giáo hoàng. Khi đó, ngài sẽ xuất hiện như một mục tử, người đầy tớ và người hướng dẫn các anh em của mình trong một thừa tác vụ giám mục thực sự chung và thống nhất” (Dombes 1985, 150).
4.3. Tính Đồng Nghị Đối Nội [Ad Intra]
153. Các cuộc đối thoại thần học nhấn mạnh vào mối quan hệ qua lại giữa việc sắp xếp đồng nghị đối nội [ad intra] của Giáo Hội Công Giáo và tính đáng tin cậy hoặc sự hấp dẫn của cam kết đại kết ad extra [đối ngoại] của giáo hoàng. Các Giáo hội và cộng đồng Giáo hội ở cả phương Đông và phương Tây đều chú ý xem xét mô hình của Giáo Hội Công Giáo về sự hiệp thông và quyền tối thượng ad intra [đối nội] như một bản thiết kế hoặc trường hợp thử nghiệm cho ý định ad extra [đối ngoại] của mình trong lĩnh vực đại kết.
154. Các cuộc đối thoại đã xác định những lĩnh vực cần có tính đồng nghị tăng cường trong Giáo Hội Công Giáo. Trong Hồng phúc Thẩm quyền, ARCIC liệt kê một số "vấn đề mà người Công Giáo Rôma phải đối diện": "Có chăng sự tham gia hữu hiệu của giáo sĩ cũng như giáo dân vào các cơ quan đồng nghị mới nổi ở mọi bình diện? Giáo huấn của Công đồng Vatican II về tính hợp đoàn của các giám mục đã được thực thi đầy đủ chưa? Các hành động của các giám mục có phản ảnh nhận thức đầy đủ về phạm vi quyền hạn mà họ nhận được thông qua việc tấn phong để quản trị giáo hội địa phương không? Đã có đủ điều khoản được đưa ra để đảm bảo sự tham vấn giữa Giám mục Roma và các giáo hội địa phương trước khi đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến một giáo hội địa phương hoặc toàn thể Giáo hội không? Làm thế nào sự đa dạng của ý kiến thần học được tính đến khi đưa ra các quyết định như vậy? Khi hỗ trợ Giám mục Rôma trong công việc cổ vũ sự hiệp thông giữa các giáo hội, các cấu trúc và thủ tục của Giáo triều Rôma có tôn trọng đầy đủ việc thực thi quyền giám mục ở các bình diện khác không? Trên hết, Giáo Hội Công Giáo Rôma sẽ giải quyết vấn đề về quyền tối thượng phổ quát như thế nào khi nó xuất hiện từ 'cuộc đối thoại kiên nhẫn và huynh đệ' về việc thực thi chức vụ của Giám mục Rôma mà Đức Gioan Phaolô II đã mời 'các nhà lãnh đạo giáo hội và các nhà thần học của họ' hướng tới? (ARCIC 1999, 57).
155. Để trả lời những câu hỏi này, các cuộc đối thoại đã đưa ra một số gợi ý ở bình diện khu vực và hoàn cầu, qua đó người Công Giáo có thể học hỏi từ kinh nghiệm của các đối tác đối thoại của họ.
Khi suy tư về sự cần thiết phải củng cố việc thực hành quyền tối thượng và tính đồng nghị ở bình diện khu vực, một số cuộc đối thoại đã đưa ra các đề xuất liên quan đến các hội đồng giám mục Công Giáo. Ví dụ, ARCIC xác định một "tiềm năng học hỏi từ chính sách và thủ tục của Anh giáo liên quan đến cấp tỉnh" và nhu cầu của người Công Giáo "phải phát triển các nguyên tắc liên quan đến: – thẩm quyền của các hội đồng giám mục; – mối quan hệ giữa các hội đồng giám mục quốc gia/khu vực và Thượng hội đồng giám mục; – xác định phạm vi và loại vấn đề có thể được giải quyết thỏa đáng ở cấp địa phương mà không cần phải thường xuyên nhờ đến Rôma; – các phương tiện thích hợp mà các hội đồng giám mục quốc gia/khu vực có thể đặt câu hỏi về các sáng kiến và chỉ thị phát sinh từ Rôma" (ARCIC 2018, 121). Ở bình diện hoàn cầu, một số cuộc đối thoại đã xác định nhu cầu phải có sự tham gia tốt hơn của toàn thể dân Chúa vào các tiến trình của Thượng hội đồng. Những thay đổi gần đây được thực hiện trong các thủ tục của Thượng hội đồng giám mục, ủng hộ sự tham gia rộng rãi hơn của tất cả những người Công Giáo, đã được quan sát với sự quan tâm (xem St I-rê-nê 2018, 11.15; ARCIC 2018, 146).
Trên cơ sở cuộc đối thoại Lutheran-Công Giáo ở Úc và sự suy tư của nó về thực hành đồng nghị Lutheran, người ta đã đề xuất rằng, ngoài Thượng hội đồng giám mục, một "Hội đồng mục vụ chung" mới ở bình diện phổ quát của Giáo Hội Công Giáo, bao gồm cả giáo dân, có thể được thành lập, theo mô hình của các hội đồng mục vụ giáo xứ và giáo phận được thành lập sau Công đồng Vatican II (xem L–C Aus 2007).
4.4. Tính Đồng Nghị Đối Ngoại [Ad Extra]: “Cùng Nhau Bước Đi”
Khái niệm đồng nghị cũng có thể được áp dụng cho mối quan hệ của Giáo Hội Công Giáo với các cộng đồng Kitô giáo khác, vì con đường đại kết cũng là một quá trình “cùng nhau bước đi”. Tính đồng nghị này được thúc đẩy thông qua các cuộc tham vấn thường xuyên và hành động và chứng tá chung.
4.4.1. “TÌNH HIỆP THÔNG CÔNG ĐỒNG” VÀ QUYỀN TỐI THƯỢNG
156. Khái niệm “tình hiệp thông công đồng [conciliar fellowship] ” đã được mô tả như một mô hình và phương pháp hiệp nhất khả thi vào những năm 1970 bởi Hội đồng các Giáo hội Thế giới và được nhiều cộng đồng Kitô giáo trên thế giới chấp nhận, cho đến ngày nay vẫn đưa ra những cách thức khả thi để tiến về phía trước. Chắc chắn, tình công đồng/tính đồng nghị sẽ tạo nên một khía cạnh của đời sống nội bộ của Giáo hội tái hợp nhất, và do đó đề cập đến mục tiêu của chủ nghĩa đại kết chứ không phải phương tiện của nó. Tuy nhiên, kiểu nói “tình hiệp thông công đồng” không chỉ có ý định về mục đích, mà còn có ý định về phương tiện trên con đường dẫn đến sự hiệp nhất, trong khuôn khổ của nhiều cấu trúc và sáng kiến chung theo kiểu công đồng/đồng nghị. Do đó, Đại hội WCC Nairobi năm 1975 đã đề xuất việc thành lập “các cuộc họp công đồng” để thúc đẩy sự thống nhất giữa các cộng đồng Kitô giáo khác nhau. Bằng cách thực hiện tầm nhìn này về “tình hiệp thông công đồng”, các Giáo hội sẽ có thể làm cho sự hiệp thông mà họ đã chia sẻ trở nên hữu hình và sâu sắc hơn, thông qua điều có thể được gọi là
‘tính đồng nghị đối ngoại’.
157. Trong góc nhìn này, Nhóm Dombes đã kết thúc văn kiện năm 1985 của mình bằng một nguyện vọng cuối cùng: “Chúng ta phải chờ đợi khoảnh khắc hiệp thông trọn vẹn được mong đợi trước khi mong muốn triệu tập một hội đồng nơi các đại diện đủ điều kiện của Giáo Hội Công Giáo và các giáo hội thuộc Hội đồng Giáo hội Thế giới có thể họp? Một cuộc họp như vậy chắc chắn sẽ không được gọi là công đồng. Tuy nhiên, theo truyền thống của giáo hội hoàn vũ, vốn xác nhận rằng một phiên họp công đồng cấu thành một ‘hình thức đặc quyền của thừa tác vụ hiệp thông’, chúng tôi tin rằng với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, một sáng kiến như vậy sẽ không chỉ có lợi cho sự tiến bộ đại kết, mà còn phù hợp với ý muốn của Chúa Giêsu Kitô vì sự hiệp nhất của giáo hội Người” (Dombes 1985, 163). Nhóm này nói thêm: “Nghiên cứu của chúng tôi về thừa tác vụ hiệp thông trong Giáo hội hoàn vũ vẽ nên một bức chân dung thiêng liêng và mục vụ của Giám mục Rôma sao cho, nếu ngài triệu tập một hội đồng như vậy cùng với Hội đồng Giáo hội Thế giới, ngài sẽ trung thành với thừa tác vụ của mình như một người phục vụ cho sự hiệp nhất. Nếu lời kêu gọi như vậy được lắng nghe, chúng ta chúc tụng Chúa” (id., 165).
Cùng một cách như vậy, trong phản hồi của họ đối với Ut unum sint, văn kiện Ökumenische Arbeitsgruppe ‘Ut unum sint’, của Thụy Sĩ, đã kêu gọi một “công đồng đại kết cho thế kỷ 21”, và Cộng đồng Iona, được linh hứng bởi Công vụ 15, đã đề xuất một “Công đồng Giêrusalem” thứ hai.
158. Trong cùng một tinh thần, nhiều cuộc đối thoại đã đề xuất các sáng kiến khác nhau để cổ vũ tính đồng nghị giữa các Giáo hội, đặc biệt là thông qua tính hợp đoàn ở bình diện giám mục và giáo chủ. Ví dụ, ARCIC II đề xuất các bước cụ thể để thiết lập sự hợp tác thực sự trong việc thực thi chức giám mục: các cuộc họp thường kỳ của các giám mục ở cấp địa phương và khu vực, sự tham gia của các giám mục của một hiệp thông vào các cuộc họp quốc tế của các giám mục thuộc hiệp thông khác, các chứng từ chung trong phạm vi công cộng về các vấn đề liên quan đến lợi ích chung, và thậm chí cả các giám mục Anh giáo đi cùng các giám mục Công Giáo trong các chuyến viếng thăm ad limina của họ tới Rôma (ARCIC 1999, 59). Các Nguyên tắc hướng dẫn tìm kiếm sự hiệp nhất giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo hội Chính thống giáo Copt (1979) đã đề xuất, mà không cần chờ đợi việc tái khôi phục sự hiệp thông trọn vẹn, một mô hình thực dụng về việc tái khám phá tính đồng nghị qua lại bằng cách thiết lập các cuộc tham vấn thường xuyên giữa các giáo chủ (6). Tham vấn Chính thống giáo-Công Giáo Bắc Mỹ đề xuất rằng "Các phái đoàn của các giám mục Chính thống giáo và Công Giáo trong một quốc gia hoặc khu vực có thể bắt đầu tập hợp thường xuyên để tham vấn về các vấn đề mục vụ. Các Thượng phụ và đại diện của các Giáo hội Chính thống giáo tự chủ và tự quản cũng có thể gặp gỡ Giáo hoàng và các giám mục Công Giáo hàng đầu và các viên chức giáo triều một cách thường xuyên để tham vấn và lập kế hoạch” (O–C US 2010, 8 a).
4.4.2. Làm Việc Và Cầu Nguyện Với Nhau
159. Bên cạnh các cuộc họp và tham vấn thường xuyên, tính đồng nghị cũng bao hàm hành động và chứng tá chung. Như ARCIC II đã nêu: “Đối thoại thần học phải tiếp tục ở mọi bình diện trong các giáo hội, nhưng tự nó không đủ. Vì lợi ích của koinonia và một chứng tá Kitô giáo hiệp nhất với thế giới, các giám mục Anh giáo và Công Giáo Rôma nên tìm cách hợp tác và phát triển các mối quan hệ có trách nhiệm giải trình lẫn nhau trong việc thực thi việc giám sát của họ. Ở giai đoạn mới này, chúng ta không những phải cùng nhau làm bất cứ điều gì có thể, mà còn phải cùng nhau trở thành tất cả những gì mà koinonia [hiêp thông] hiện tại của chúng ta cho phép” (ARCIC 1999, 58).
Những nguyện vọng này đã được thúc đẩy đáng kể thông qua việc thành lập Ủy ban Quốc tế Anh giáo–Công Giáo Rôma về Hiệp nhất và Sứ mệnh (IARCCUM), đã đưa ra một số đề xuất sáng tạo và thiết thực về những cách mà các giám mục Anh giáo và Công Giáo có thể thực hành tinh thần hợp đoàn mới (xem Growing Together in Unity and Mission, 2007, 108–117).
160. Các sáng kiến gần đây minh họa cho cách cổ vũ "tính đồng nghị đối ngoại" này, ví dụ: chuyến thăm chung đến Lesbos của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thượng phụ Đại kết Bartholomew và Tổng giám mục Ieronymos vào năm 2016 để chứng kiến mối quan tâm chung của họ đối với tình hình bi thảm của những người di cư; buổi cầu nguyện chung Lutheran-Công Giáo tại Lund do Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Giám mục Munib A. Younan, khi đó là Chủ tịch của Liên đoàn Lutheran Thế giới, chủ trì, với sự hiện diện của nhiều đối tác đại kết, vào năm 2017; cuộc tĩnh tâm tâm linh dành cho các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo của Nam Sudan được tổ chức tại Vatican bởi Đức Giáo Hoàng Phanxicô Và Tổng giám mục Justin Welby năm 2019; Cuộc hành hương hòa bình đại kết đến Nam Sudan của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tổng giám mục Justin Welby và Mục sư Iain Greenshields năm 2023; và Lễ cầu nguyện chung đại kết “Cuộc tụ họp chung của dân Chúa” được tổ chức tại Quảng trường Thánh Phêrô năm 2023 cho Đại hội đồng thường kỳ XVI của Thượng hội đồng giám mục.