Đề Xuất Từ Phiên Họp Toàn Thể Của Bộ Cổ Vũ Sự Hiệp Nhất Ki-Tô Giáo Dựa Trên Tài Liệu Nghiên Cứu “Giám Mục Rôma”
Tài liệu nghiên cứu “Giám mục Rôma. Quyền tối thượng và tính đồng nghị trong các cuộc Đối thoại Đại kết và trong các Phản hồi cho Thông điệp Ut unum sint” đã tạo cơ hội cho Bộ Cổ vũ Sự hiệp nhất Ki-tô giáo đánh giá sự phát triển của suy tư đại kết về chủ đề này.
Trên cơ sở Tài liệu nghiên cứu này, một đề xuất có tên là “Hướng tới việc thực thi quyền tối thượng trong thế kỷ 21” cũng đã được Phiên họp Toàn thể của Bộ Cổ vũ Sự hiệp nhất Ki-tô giáo chấp thuận. Đề xuất này xác định những đóng góp quan trọng nhất của các cuộc đối thoại, gợi ý các bước tiếp theo cần thực thi và đưa ra một số nguyên tắc và gợi ý để thực thi một cách canh tân thừa tác vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma có thể được "tất cả những người liên quan công nhận" (UUS 95).
Những Đóng Góp Quan Trọng Cho Sự Suy Nghĩ Về Quyền Tối Thượng
1. Các tài liệu đối thoại và phản hồi cho Ut unum sint đã đóng góp đáng kể cho sự suy tư về vấn đề quyền tối thượng. Các cuộc đối thoại thần học đại kết đã chứng minh là bối cảnh thích hợp để xem xét lại hình thức của giáo hoàng và việc thực thi thẩm quyền của giáo hoàng để phục vụ cho communio ecclesiarum [sự hiệp thông của các giáo hội]. Vào thời điểm mà kết quả của sự tham gia đại kết thường bị coi là ít ỏi hoặc không đáng kể, thì kết quả của các cuộc đối thoại thần học - quốc tế và quốc gia, chính thức và không chính thức - chứng minh giá trị của phương pháp luận của họ, đó là sự suy tư được thực thi "tất nhiên là cùng nhau", như Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi trong Ut unum sint. Điều đặc biệt đáng chú ý là sự suy tư này đã tăng lên trong những thập niên qua và đã thu hút hầu hết các truyền thống Kitô giáo tham gia vào cuộc thảo luận với tinh thần đại kết mới và tích cực, với những đóng góp quan trọng từ các nhóm địa phương và không chính thức, tạo ra sự hội tụ thần học đáng kể và ngày càng gia tăng.
2. Việc đọc các tài liệu đối thoại chứng thực rằng câu hỏi về quyền tối thượng đối với toàn thể Giáo hội, và đặc biệt thừa tác vụ của Giám mục Rôma, không chỉ cần được coi là một vấn đề mà còn là cơ hội để cùng nhau suy tư về bản chất của Giáo hội và sứ mệnh của Giáo hội trên thế giới. Việc xử lý chủ đề này đã cho phép phân tích sâu hơn một số chủ đề giáo hội học thiết yếu như: sự hiện hữu và sự phụ thuộc lẫn nhau của quyền tối thượng và tính đồng nghị ở mỗi bình diện của Giáo hội; sự hiểu biết về tính đồng nghị như một phẩm chất cơ bản của toàn thể Giáo hội, bao gồm sự tham gia tích cực của tất cả các tín hữu; và sự phân biệt giữa và mối quan hệ giữa tính hợp đoàn và tính đồng nghị.
3. Sự suy tư chung này đã đóng góp đáng kể cho thần học Công Giáo. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố: “Hành trình của chủ nghĩa đại kết đã cho phép chúng ta đi đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về thừa tác vụ của Người kế vị Thánh Phêrô, và chúng ta phải tin tưởng rằng nó sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai”. (1) Tư duy thần học về tính đồng thời của Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ (xem Tài liệu nghiên cứu §§120–126); khái niệm và sự hiểu biết đương thời về 'tính đồng nghị' (xem ARCIC 1999, 34–40); và chiều kích ba chiều của Giáo hội (‘cộng đồng’, ‘hợp đoàn’ và ‘cá vị’) (xem Tài liệu nghiên cứu §§114–118), đã được phát triển hoặc đào sâu trong bối cảnh đối thoại đại kết, làm phong phú thêm việc sử dụng các khái niệm này trong các tài liệu Công Giáo sau này. Sự tiếp nhận này minh họa cho ‘sự trao đổi các ân huệ’ được đề cập trong Evangelii gaudium trích dẫn các ví dụ về tính hợp đoàn và tính đồng nghị:
“Nếu chúng ta thực sự tin vào hoạt động hết sức tự do của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể học được rất nhiều điều từ nhau! […] Thông qua việc trao đổi các ân huệ, Chúa Thánh Thần có thể dẫn dắt chúng ta ngày càng trọn vẹn vào chân lý và sự thiện” (EG 246). ‘Sự trao đổi các ân huệ’ này cũng có thể áp dụng cho việc thực thi quyền tối thượng. Thật vậy, trong khi người Công Giáo tin rằng vai trò độc nhất của Giám mục Rôma là một món quà quý giá của Chúa vì lợi ích của toàn thể Giáo hội, các cuộc đối thoại đã chứng minh rằng có những nguyên tắc hợp lệ trong việc thực thi quyền tối thượng trong các cộng đồng Kitô giáo khác mà người Công Giáo có thể xem xét.
Các Bước Trong Tương Lai Sẽ Được Thực Thi Trong Các Cuộc Đối Thoại Thần Học
4. Chiều rộng và chiều sâu của sự suy tư đại kết về quyền tối thượng trong thời gian gần đây là đáng chú ý, và dường như chỉ ra rằng đã đến lúc thực thi các bước tiếp theo trong các cuộc đối thoại đại kết.
Chắc chắn, cần có sự kết nối tốt hơn giữa các cuộc đối thoại — địa phương và quốc tế, chính thức và không chính thức, song phương và đa phương, và đặc biệt là giữa các cuộc đối thoại Đông và Tây — để tránh sự lặp lại và làm phong phú lẫn nhau. Ví dụ, các phương pháp đại kết về sự đồng thuận dị biệt hóa (xem Tài liệu Nghiên cứu §107) và chủ nghĩa đại kết tiếp thu, đã được một số cuộc đối thoại thần học áp dụng, có thể hữu ích để thống nhất về một thực thi chức vụ hiệp nhất cho toàn thể Giáo hội một cách có thể chấp nhận được: nếu những khác biệt về ngôn ngữ thần học thực sự có thể được xem là bổ sung cho nhau thay vì xung đột với nhau' (xem UR 17), thì điều tương tự cũng có thể nói về các hoạt động của giáo hội.
5. Các cuộc đối thoại thần học về vấn đề quyền tối thượng đã ngày càng chứng minh rằng quyền tối thượng và tính đồng nghị không phải là hai chiều kích đối lập của giáo hội, mà đúng hơn chúng là hai thực tại cấu thành và duy trì lẫn nhau, và do đó nên được giải quyết cùng nhau. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lưu ý với một nhóm các nhà thần học đại kết, “chúng ta đã hiểu rõ hơn rằng trong Giáo hội, quyền tối thượng và tính đồng nghị không phải là hai nguyên tắc cạnh tranh cần được giữ cân bằng, mà là hai thực tại thiết lập và duy trì lẫn nhau trong việc phục vụ sự hiệp thông. Cũng như quyền tối thượng giả định việc thực thi tính đồng nghị, thì tính đồng nghị cũng đòi hỏi việc thực thi tính tối thượng.” (2)
6. Vì sự hiệp thông đồng nghị, được hiểu là sự kết hợp của ‘tất cả’, ‘một số’ và ‘một’, bao gồm việc thực thi tính tối thượng, nên đối thoại thần học về tính tối thượng, theo quan điểm phương pháp luận, nên bắt đầu bằng việc suy tư về tính đồng nghị. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố trong cùng một bài phát biểu, “tính đồng nghị theo nghĩa rộng có thể được coi là sự kết hợp của ba chiều kích: ‘tất cả’, ‘một số’ và ‘một’”. Trong tầm nhìn này, “thừa tác vụ tối thượng là một yếu tố nội tại của động lực đồng nghị, cũng như khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể dân Chúa và chiều kích đồng nghị là một phần của việc thực thi thừa tác vụ giám mục. Do đó, một cách tiếp cận hữu hiệu đối với tính tối thượng trong các cuộc đối thoại thần học và đại kết cần phải dựa trên sự suy tư về tính đồng nghị: không có cách nào khác”. Theo cùng một hướng, báo cáo tổng hợp của phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng thường kỳ XVI của Thượng hội đồng giám mục khẳng định: “Động lực đồng nghị cũng chiếu sáng mới mẻ vào thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Thật vậy, tính đồng nghị diễn đạt một cách hài hòa các chiều kích cộng đồng (‘tất cả’), hợp đoàn (‘một số’) và cá vị (‘một’) của Giáo hội ở bình diện địa phương, khu vực và hoàn vũ. Trong viễn kiến như vậy, thừa tác vụ Phêrô của Giám mục Rôma là nội tại của động lực đồng nghị, cũng như khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể dân Chúa và chiều kích hợp đoàn của việc thực thi thừa tác vụ Giám mục”. (3)
Một bước nữa liên quan đến việc làm rõ từ vựng được các cuộc đối thoại sử dụng. Trên thực tế, các tài liệu không phải lúc nào cũng sử dụng các thuật ngữ như ‘đồng nghị/công nghị’, ‘hợp đoàn, ‘quyền tối thượng’, ‘thẩm quyền’, ‘quyền lực’, ‘hành chính’, ‘chính quyền’ và ‘quyền tài phán’ theo một cách đồng nhất và nhất quán.
8. Có vẻ như đặc biệt cần phải làm rõ ý nghĩa của cụm từ ‘Giáo hội hoàn vũ’. Thật vậy, kể từ thế kỷ 19, tính Công Giáo của Giáo hội thường được hiểu là chiều kích hoàn cầu của nó, theo cách ‘duy phổ quát [universalistic]’. Một cách hiểu như vậy không tính đầy đủ đến sự khác biệt giữa Ecclesia universalis (‘Giáo hội phổ quát’ theo nghĩa địa lý) và Ecclesia universa (‘trọn Giáo hội’, ‘toàn thể Giáo hội’), kiểu nói sau là cách diễn đạt truyền thống hơn trong giáo huấn Công Giáo. Một khái niệm đơn thuần về tính Công Giáo của Giáo hội có nguy cơ dẫn đến một quan niệm thế tục về ‘quyền tối thượng phổ quát’ trong một ‘Giáo hội phổ quát’, và do đó dẫn đến một cách hiểu thế tục về sự mở rộng và hạn chế của quyền tối thượng như vậy. Ngay cả các khái niệm về ‘bình diện’, ‘phụ trợ’, ‘tự chủ’, và ‘phân quyền’ vẫn nằm trong cùng một khuôn khổ, có ý nghĩa hành chính hơn là ý nghĩa giáo hội học. Quyền tối thượng của Rôma nên được hiểu không phải như một quyền lực phổ quát trong một Giáo hội phổ quát (Ecclesia universalis), mà là một thẩm quyền phục vụ cho sự hiệp thông giữa trong các Giáo hội (communio Ecclesiarum), tức là toàn thể Giáo hội (Ecclesia universa).
9. Một bước cần thiết nữa là thúc đẩy việc tiếp nhận những kết quả đáng kể của các cuộc đối thoại này, không chỉ thông qua thảo luận giữa các chuyên gia, mà ở mọi bình diện, để các kết quả có thể trở thành di sản chung. Nhóm công tác chung giữa Hội đồng các Giáo hội Thế giới và Giáo Hội Công Giáo trong tài liệu về việc tiếp nhận đã mô tả việc tiếp nhận đại kết là “thái độ truyền giáo cần thiết để cho phép [các kết quả của cuộc đối thoại] được chấp nhận trong truyền thống giáo hội của chính mình”. (4) Đức Gioan Phaolô II đã viết trong Ut unum sint rằng để tiếp nhận các thỏa thuận song phương, “cần phải tiến hành một cuộc kiểm tra nghiêm túc, bằng nhiều cách thức và phương tiện khác nhau và ở nhiều bình diện trách nhiệm khác nhau, phải có sự tham gia của toàn thể dân Chúa” (UUS 80). Quá trình tiếp nhận này nên có sự tham gia của toàn thể Giáo hội trong việc thực thi sensus fidei [cảm thức đức tin]: giáo dân tín hữu, nhà thần học và mục tử, với sự tham gia của các khoa thần học và các ủy ban đại kết địa phương. Nó có thể bao gồm việc cổ vũ việc dễ dàng tiếp cận các tài liệu đối thoại, đặc biệt thông qua internet, cung cấp bản dịch chính xác (không chỉ bằng các ngôn ngữ phương Tây), tổ chức các biến cố học thuật chung, khuyến khích các phản hồi và thực thi tại địa phương một số đề xuất của chúng.
10. Đối thoại thần học, hay 'đối thoại chân lý', giữa Các Giáo hội không chỉ nên suy tư về những khác biệt về tín lý của họ trong quá khứ, mà còn phải diễn giải về mặt thần học các mối quan hệ hiện tại của họ. Kể từ Công đồng Vatican II, sự phát triển của 'đối thoại tình yêu' và 'đối thoại cuộc sống', thông qua lời cầu nguyện và chứng tá chung, các thỏa thuận mục vụ, trao đổi thư từ và quà tặng giữa các anh em, các cuộc viếng thăm qua lại giữa các nhà lãnh đạo Kitô giáo ở mọi bình diện, là rất hùng biện về mặt đại kết và đã cung cấp các góc nhìn thần học mới cho vấn đề về quyền tối thượng. Kể từ thời Giáo hội sơ khai, những cử chỉ như vậy được coi là dấu hiệu và phương tiện đích thực của sự hiệp thông. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố: “Những cử chỉ này, dựa trên sự công nhận một Phép Rửa, không chỉ là những hành động lịch sự hay ngoại giao, mà còn có ý nghĩa giáo hội và có thể được coi là loci theologici [cứ điểm thần học] đích thực. […] Về vấn đề này, tôi tin rằng ‘đối thoại bác ái’ không chỉ được hiểu là sự chuẩn bị cho ‘đối thoại chân lý’, mà bản thân nó là ‘thần học trong hành động’, có khả năng mở ra những chân trời mới trên hành trình của các Giáo hội của chúng ta. Vào thời điểm khi, tạ ơn Chúa, mối quan hệ giữa chúng ta đang sâu sắc hơn, tôi tin rằng thật tốt khi nghĩ lại về sự phát triển của những mối quan hệ đó dưới góc độ của một ‘thần học đối thoại trong bác ái’”. (5)
11. Những cử chỉ và hành động mang tính biểu tượng cụ thể của Giám mục Rôma đóng vai trò thiết yếu trong việc xây dựng bầu không khí tin cậy, củng cố mối quan hệ hiệp thông, vượt qua những định kiến lịch sử và tạo ra một ký ức mới, và trong việc phát triển sự đánh giá cao ngày càng tăng về ‘thừa tác vụ hiệp nhất’ của ngài. Điều quan trọng là những cử chỉ và hành động như vậy phải được tiếp tục với sự sáng tạo và lòng quảng đại, và
được phản ảnh về mặt thần học.
Các Nguyên Tắc Và Đề Xuất Cho Việc Thực Thi Mới Quyền Tối Thượng
12. Hai khuôn khổ lặp đi lặp lại được các cuộc đối thoại thần học xác định có thể cung cấp một nguồn lực quan trọng để suy tư về việc thực thi quyền tối thượng trong thế kỷ 21. Các cuộc đối thoại kêu gọi một sự kết hợp hài hòa của (1) các chiều kích ‘cộng đồng’, ‘hợp đoàn’ và ‘cá vị’ ở (2) các bình diện địa phương, khu vực và hoàn cầu của Giáo hội.
13. Xem xét các bình diện khác nhau của Giáo hội, nhiều cuộc đối thoại đại kết đề cập đến nguyên tắc bổ trợ như một nguyên tắc quan trọng để thực thi quyền tối thượng và tính đồng nghị. Ban đầu được phát triển trong bối cảnh học thuyết xã hội của Giáo hội, điều này có nghĩa là bất cứ vấn đề nào có thể được giải quyết đúng đắn ở bình diện thấp hơn đều không nên được đưa lên bình diện cao hơn. (6) Khi áp dụng vào giáo hội học, sự mơ hồ (xem §8 ở trên) và nguồn gốc xã hội học của nguyên tắc này (vốn giả định rằng thẩm quyền được chuyển giao xuống từ cấp cao hơn) nên được ghi nhớ để tránh cách tiếp cận chỉ mang tính hành chính đối với đời sống Giáo hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh giáo hội, ý định và nội dung của nó có thể góp phần vào việc thực thi quyền tối thượng theo lối đồng nghị bằng cách đảm bảo sự tham gia của toàn thể dân Chúa vào quá trình ra quyết định, đặc biệt là trong các vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến họ. (7)
14. Trong số các đề xuất được các cuộc đối thoại nêu ra, lời kêu gọi một sự 'tiếp nhận lại' hoặc bình luận chính thức Công đồng Vatican I có vẻ đặc biệt quan trọng. Giả định quy tắc giải thích cho rằng các tín điều của Vatican I phải được đọc dưới ánh sáng của Vatican II, đặc biệt là giáo huấn của Công đồng về dân Chúa (LG, chương II) và tính hiệp đoàn (LG 22–23), một số cuộc đối thoại cho rằng Công đồng Vatican II không giải thích rõ ràng Công đồng Vatican I nhưng, trong khi kết hợp giáo huấn của nó, đã bổ sung cho nó (LG, chương III, 18). Do đó, vẫn cần phải trình bày giáo huấn Công Giáo về quyền tối thượng dưới góc độ của một giáo hội học communio [hiệp thông], trong khuôn khổ ‘phẩm trật các chân lý’ (UR 11). Cũng cần phải đọc lại Công đồng Vatican I dưới góc độ của toàn bộ Truyền thống, “theo niềm tin cổ xưa và liên tục của Giáo hội hoàn vũ” (Pastor æternus, Dẫn nhập, DH 3052), và trước viễn cảnh của sự hội tụ đại kết ngày càng gia tăng trên nền tảng Kinh thánh, các diễn biến lịch sử, và ý nghĩa thần học của quyền tối thượng và tính đồng nghị. Ở đây một lần nữa cần phải làm rõ thuật ngữ được áp dụng, thường vẫn còn mơ hồ và dễ bị hiểu sai, ví dụ: quyền tài phán thông thường, trực tiếp và phổ quát; bất khả ngộ; chính quyền; thẩm quyền và quyền lực tối cao.
Một đề xuất quan trọng khác là cần phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của Giáo hoàng, đặc biệt là giữa thừa tác vụ của ngài với tư cách là người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo và thừa tác vụ hiệp nhất giữa tất cả các Kitô hữu, hay cụ thể hơn là giữa thừa tác vụ thượng phụ của ngài trong Giáo hội Latinh và thừa tác vụ tối thượng của ngài trong sự hiệp thông của các Giáo hội. Việc xóa bỏ danh hiệu ‘Thượng phụ phương Tây’ khỏi Annuario Pontificio năm 2006 đã làm dấy lên một số lo ngại trong các nhóm đại kết và tạo cơ hội để bắt đầu suy tư về sự khác biệt giữa những trách nhiệm khác nhau này, vốn cần được tiếp tục.
16. Vì những trách nhiệm khác nhau của Giáo hoàng được đặt nền tảng trong thừa tác vụ của ngài với tư cách là Giám mục Rôma, Giáo hội chủ trì trong công tác bác ái trên tất cả các Giáo hội, nên điều cần thiết là phải làm nổi bật thừa tác vụ giám mục của ngài ở cấp địa phương, với tư cách là một giám mục giữa các giám mục. Về vấn đề này, điều đáng chú ý là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh danh hiệu ‘Giám mục của Rôma’ ngay từ những lời phát biểu công khai đầu tiên sau khi được bầu, khi nói rằng “Bổn phận của Mật nghị là trao cho Rôma một Giám mục” và rằng “cộng đồng giáo phận Rôma hiện đã có Giám mục của mình”. (8)
Gần đây hơn, việc liệt kê các danh hiệu giáo hoàng khác của ngài như có tính "lịch sử" (xem Annuario Pontificio 2020), có thể góp phần tạo nên hình ảnh mới về giáo hoàng. Tương tự như vậy, nhà thờ chính tòa của giáo phận Rôma đã được nổi bật hơn kể từ khi các văn bản và thư từ gần đây của giáo hoàng được ký từ Nhà thờ Thánh Gioan Lateranô, một nhà thờ có thể đóng vai trò quan trọng hơn nữa tại lễ nhậm chức của một giáo hoàng mới. Tuy nhiên, thuật ngữ được sử dụng trong các văn bản và tuyên bố chính thức của Công Giáo liên quan đến chức vụ của Giáo hoàng thường không phản ảnh được những diễn biến này và thiếu sự nhạy cảm đại kết.
17. Việc định hình Giáo Hội Công Giáo một cách đồng nghị là rất quan trọng đối với cam kết đại kết của Giáo hội. Giáo Hội Công Giáo có bổn phận với các đối tác đối thoại của mình là chứng minh trong đời sống giáo hội của chính mình một mô hình thuyết phục và hấp dẫn về tính đồng nghị. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố, “cam kết xây dựng một giáo hội đồng nghị – một sứ mệnh mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi, mỗi người đều có vai trò được Chúa giao phó – có ý nghĩa đại kết quan trọng”. (9) Thật vậy, “rõ ràng là cách mà Giáo Hội Công Giáo trải nghiệm tính đồng nghị là quan trọng đối với mối quan hệ của mình với các Kitô hữu khác. Đây là một thách thức đối với chủ nghĩa đại kết”. (10) Gần đây hơn, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh mối quan hệ kép giữa tính đồng nghị và đại kết, khẳng định rằng “Hành trình đồng nghị do Giáo Hội Công Giáo thực thi là và phải mang tính đại kết, cũng như hành trình đại kết mang tính đồng nghị”. (11)
18. Nhiều định chế và thực hánh đồng nghị của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương có thể truyền cảm hứng cho Giáo hội Latinh, cũng như có thể, trong tinh thần ‘trao đổi hồng ân’, các định chế và thực hành đồng nghị của các cộng đồng Kitô giáo khác (xem EG 246), có thể được xác định và nghiên cứu một cách có hệ thống cho mục đích này. (12)
Các phương tiện truyền thông mới cũng có thể mang đến những cơ hội mới cho một Giáo hội đồng nghị trong thời đại kỹ thuật số. Tất nhiên, các thực hành tính đồng nghị có thể đa dạng và phải phù hợp với bình diện giáo hội và bối cảnh văn hóa đặc thù. Trong quá trình tìm kiếm một việc lên khuôn có tính đồng nghị hơn cho Giáo Hội Công Giáo, mối quan hệ qua lại giữa luật giáo hội và đối thoại đại kết là điều cần thiết: “Luật giáo hội không chỉ là một công cụ hỗ trợ cho đối thoại đại kết, mà còn là một chiều kích thiết yếu của nó. Sau đó, rõ ràng là đối thoại đại kết cũng làm phong phú thêm luật giáo hội”. (13)
19. Ở Bình diện địa phương và khu vực, có vẻ như cần phải khôi phục và củng cố các cấu trúc đồng nghị bao gồm tất cả các tín hữu, như được Công đồng Vatican II hình dung và quy định trong Bộ luật Giáo luật, chẳng hạn như các hội đồng mục vụ giáo phận (CIC can. 511–514), các công đồng giáo phận (CIC can. 460–468), và cả các công đồng toàn thể và tỉnh (CIC can. 439–445), hiếm khi, nếu không muốn nói là không bao giờ, được triệu tập.
Bộ luật Giáo luật của các Giáo hội Đông phương quy định các cấu trúc đồng nghị bao gồm cả giáo dân, chẳng hạn như hội đồng thượng phụ (CCEO can.140–145) và hội đồng giáo phận đông phương (CCEO can. 235–242), có thể mang tính hướng dẫn cho Giáo hội Latinh. Điều quan trọng nữa là phải nhận ra lời kêu gọi của Công đồng Vatican II liên quan đến các hội đồng giám mục, “vì tư thế tài phán của các hội đồng giám mục vốn tự coi mình như chủ thể của các quyền hạn chuyên biệt, bao gồm quyền hạn tín lý đích thực, vẫn chưa được giải thích đầy đủ” (EG 32, đề cập đến Tự sắc Apostolos suos, 1998). Đặc biệt, có thể thấy rằng sự song hành giữa các hội đồng giám mục và các tòa thượng phụ cổ thời được Lumen gentium 23 (xem thêm O–C 2007, 29; EG 32) vẫn chưa được phát triển, cả về mặt thần học lẫn giáo luật. Phù hợp với cả điều này và đề xuất thành lập ‘Tòa Thượng phụ mới’ hoặc ‘Các Giáo hội chính’ (xem Tài liệu Nghiên cứu, chú thích 25), cần phải suy gẫm về ý nghĩa giáo hội của các cơ quan giám mục lục địa, mà chiều kích siêu quốc gia có thể bảo vệ họ khỏi áp lực chính trị và lợi ích dân tộc chủ nghĩa.
20. Ở bình diện hoàn cầu, Bộ Giáo luật và Bộ Giáo luật của các Giáo hội Đông phương đưa ra các điều khoản cho việc thực thi thừa tác vụ giáo hoàng mang tính hợp đoàn nhiều hơn. Những điều khoản này có thể được phát triển thêm trong thực tế và được củng cố trong lần sửa đổi tương lai của cả hai văn bản. Ví dụ, Bộ Giáo luật khẳng định rằng khi thực thi nhiệm vụ tối thượng của mình, Đức Giáo Hoàng “luôn hiệp thông với các giám mục khác và với Giáo hội hoàn vũ” và bao gồm khả năng thực thi nhiệm vụ này một cách đồng thuận, một điều khoản có thể được sử dụng nhiều hơn (CIC 333§2). Tương tự như vậy, bên cạnh các công đồng chung, Bộ Giáo luật dự kiến một hoạt động đồng thuận trong việc quản lý Giáo hội (CIC 337§2) và trong việc xây dựng giáo huấn bất khả ngộ (CIC 749§2).
21. Một sự phát triển quan trọng liên quan đến việc định hình Giáo Hội Công Giáo theo phương thức đồng nghị là việc đổi mới hoạt động của Thượng hội đồng giám mục. Tông Hiến Episcopalis communio (2018) làm rõ ý nghĩa đại kết của sự đổi mới này: “Hoạt động của Thượng hội đồng Giám mục sẽ có thể tự mình góp phần vào việc tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các Kitô hữu, theo ý muốn của Chúa (x. Ga 17:21). Bằng cách đó, nó sẽ giúp Giáo Hội Công Giáo, theo mong muốn được Đức Gioan Phaolô II bày tỏ nhiều năm trước, ‘tìm ra cách thực thi quyền tối thượng, mặc dù không từ bỏ những gì thiết yếu cho sứ mệnh của mình, nhưng vẫn mở ra cho một tình huống mới’ (UUS 95)” (EC 10). Khẳng định rằng tiến trình đồng nghị “không chỉ có điểm khởi đầu mà cũng có điểm đến trong dân Chúa” (EC 7), Episcopalis communio cổ vũ sự tham gia rộng rãi hơn của toàn thể dân Chúa thông qua các tiến trình tham vấn (EC điều 5–7). Nó cũng mở rộng khả thể cho Thượng hội đồng giám mục trở thành một cơ quan có tính biểu quyết [deliberative], trong trường hợp đó, văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng, “tham gia vào Huấn quyền thông thường của Người kế vị Thánh Phêrô”, được công bố với chữ ký của Đức Giáo Hoàng “cùng với chữ ký của các thành viên” (xem CIC 343; EC điều 18). Tiến trình đồng nghị năm 2021-2024 cho Đại hội đồng chung lần thứ XVI của Thượng hội đồng giám mục có tựa đề “Vì một Giáo hội đồng nghị: hiệp thông, tham gia và truyền giáo”, dựa trên sự tham vấn rộng rãi của toàn thể dân Chúa ở cấp địa phương, khu vực (quốc gia/lục địa) và hoàn vũ, là một dịp thuận lợi để đào sâu sự suy tư về động lực đồng nghị nối kết các chiều kích cá vị, hợp đoàn và cộng đồng của Giáo hội.
22. Việc cải cách Giáo triều cũng là một khía cạnh quan trọng của việc lên khuôn Giáo Hội Công Giáo theo cách đồng nghị. Tông hiến Praedicate evangelium (2022) khẳng định rằng cuộc cải cách này là dựa trên “cuộc sống hiệp thông [mang lại] cho Giáo hội tính chất đồng nghị” (PE I.4). Nhấn mạnh rằng “sự xuất hiện của các Hội đồng Giám mục trong Giáo hội La tinh đại diện cho một trong những hình thức mới nhất trong đó communio Episcoporum [hiệp thông giám mục] đã tự phát biểu là để phục vụ communio Ecclesiarum [hiệp thông các giáo hội] dựa trên communio fidelium [hiệp thông tín hữu]” (PE I.7), nó nhấn mạnh rằng “Giáo triều Rôma không đứng giữa Giáo hoàng và các Giám mục, mà đúng hơn là phục vụ cả hai theo cách phù hợp với bản chất của mỗi bên” (PE I.8) và cổ vũ “sự phân quyền lành mạnh” (PE II.2). Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thiết lập “một biểu thức sâu sắc hơn về sự hiệp thông và hỗ trợ của các giám mục đối với munus petrinum [chức vụ Phê-rô] mà Giám mục đoàn trên toàn thế giới có thể cung cấp”, khi, trong năm đầu tiên của triều giáo hoàng của mình, ngài đã thành lập một Hội đồng Hồng Y. (14) Mặc dù không phải là một phần của Giáo triều Rôma, Hội đồng này, cùng với các Mật nghị thông thường và bất thường (CIC can. 353), có thể là bước đầu tiên hướng tới một cơ cấu quản trị đồng nghị lâu dài ở bình diện toàn thể Giáo hội, bao gồm sự tham gia tích cực của các giám mục địa phương. Điều này đã được đề xuất trong Công đồng Vatican II bởi Thượng phụ Melkite Maximus IV, người đã đề xuất rằng một “thượng hội đồng thường trực” đại diện cho hội đồng giám mục được thành lập theo mô hình của synodos endemousa Đông phương, với nhiệm vụ hỗ trợ Đức Giáo Hoàng trong việc quản lý trung ương của Giáo hội. (15)
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các thượg hội đồng Chính thống giáo nói chung có tính biểu quyết, trong khi các cấu trúc thượng hội đồng Công Giáo chủ yếu mang tính tham vấn.
23. Việc định hình Giáo hội theo lối đồng nghị không chỉ là vấn đề về các cấu trúc và quy trình giáo hội ở bình diện định chế, cũng không được nắm bắt bởi các biến cố đồng nghị chuyên biệt, mà còn là modus vivendi et operandi [phương thức sống và hoạt động] của toàn thể Giáo hội. Như Ủy ban Thần học Quốc tế đã nêu: “Trước hết và quan trọng nhất, tính đồng nghị biểu thị phong cách cụ thể định tính cho đời sống và sứ mệnh của Giáo hội, nói lên bản chất của Giáo hội là dân Chúa cùng nhau hành trình và tập hợp trong hội đồng, được Chúa Giêsu triệu tập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để công bố Tin Mừng” (ITC 2018, 70).
24. Tính đồng nghị ad extra [đối ngoại], cổ vũ các cuộc họp thường kỳ giữa các đại diện của Giáo hội ở bình diện hoàn cầu, đôi khi được gọi là ‘tình hiệp thông công đồng’, được chỉ định như một cách đầy hứa hẹn để làm hiển thị và thâm hậu hóa sự hiệp thông đã được chia sẻ. Ngay cả khi tính công đồng/ đồng nghị cấu thành một khía cạnh của đời sống nội bộ của Giáo hội đã thống nhất, tuy nhiên, tính đồng nghị nhất định (‘cùng nhau bước đi’) giữa các Giáo hội được cổ vũ bất cứ khi nào các nhà lãnh đạo Giáo hội cùng nhau nhân danh Chúa Giêsu Kitô để cầu nguyện, hành động và làm chứng chung, hoặc để tham vấn và tham gia vào các tiến trình đồng nghị của nhau. Không cần chờ đợi sự hiệp thông hữu hình hoàn toàn như một điều kiện tiên quyết để nói và hành động với nhau, một thực hành như vậy có thể cho phép các Giáo hội lắng nghe nhau và bắt đầu các quá trình phân định và ra quyết định chung về các vấn đề cấp bách mà mọi người cùng quan tâm.
Điều này có thể cổ vũ các cơ hội để đào sâu sự hiểu biết lẫn nhau và cho phép các Giáo hội hỗ trợ lẫn nhau tốt hơn. Về khía cạnh này, lời mời các cộng đồng Kitô giáo khác tham gia vào các tiến trình đồng nghị Công Giáo ở mọi bình diện là đặc biệt quan trọng và có thể được mở rộng đến các chuyến thăm ad limina, như được gợi ý bởi các cuộc đối thoại khác nhau. Ở một bình diện khác, cuộc họp năm 2018 tại Bari của các nhà lãnh đạo Giáo hội đã tập trung theo lời mời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, để cầu nguyện, suy gẫm và trao đổi không chính thức về tình hình của các Kitô hữu ở Trung Đông, chỉ ra một cách mới để thực thi tính đồng nghị và quyền tối thượng. Một sự chuẩn bị chung và kỷ niệm 1700 năm Công đồng Chung thứ nhất (Ni-xê-a, 325) có thể tạo cơ hội để thực hành tính đồng nghị này giữa các Kitô hữu thuộc mọi truyền thống.
Hướng Đến Một Mô Hình Hiệp Thông
25. Dựa trên các nguyên tắc và khuyến nghị nêu trên, vốn là thành quả của sự suy tư đại kết chung, Giáo Hội Công Giáo có thể đổi mới việc thực thi thừa tác vụ của Giám mục Rôma và đề xuất một mô hình hiệp thông dựa trên “một dịch vụ yêu thương được tất cả những người liên quan công nhận” (UUS 95). Tránh một sự đối lập hời hợt và không thực tế giữa luật pháp và sự hiệp thông, đề xuất này không nên được diễn đạt chỉ bằng các thuật ngữ pháp lý, mà trên cơ sở của một giáo hội học koinonia [hiệp thông] bắt nguồn từ sự hiểu biết bí tích về Giáo hội được Công đồng Vatican II ủng hộ (xem LG 1, 9, 48). Một nền giáo hội học như vậy dựa trên sensus fidei [cảm thức đức tin] của tất cả các tín hữu nhờ phép rửa tội của họ; dựa trên Thánh Thể, “là tiêu chuẩn của đời sống giáo hội nói chung” (O–C 2007, 3); và trên bản chất bí tích của giám mục (xem LG 21). Vì “sự hiệp thông, tính công đồng và thẩm quyền của giáo hội” được hiểu là “hậu quả giáo hội học và giáo luật của bản chất bí tích của giáo hội” (xem tiêu đề của Văn kiện Ravenna), “các cấu trúc định chế” của Giáo hội phải “phản ảnh một cách hiển hiện mầu nhiệm koinonia này” (O–C 2007, 3).
26. Mặc dù có một ‘việc phục vụ tình yêu’ thiết yếu, nhưng một mô hình hiệp thông như vậy sẽ được thực thi khác nhau ở Đông và Tây. Đối với các Giáo hội Chính thống giáo, mà với họ, Giáo Hội Công Giáo công nhận một trật tự giáo hội chung dựa trên truyền thống tông đồ và các bí tích, mô hình này có thể phù hợp chặt chẽ với nguyên tắc thường được trích dẫn cho rằng “Rôma không được yêu cầu nhiều hơn từ phương Đông so với những gì đã được hình thành và thực thi trong thiên niên kỷ đầu tiên”.(16) Việc khôi phục sự hiệp thông trọn vẹn, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố, “không có nghĩa là sự phục tùng của bên này đối với bên kia, hoặc sự đồng hóa. Thay vào đó, nó có nghĩa là chào đón tất cả các ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi bên, do đó chứng minh cho toàn thế giới thấy mầu nhiệm cứu độ vĩ đại do Chúa Kitô thực thi thông qua Chúa Thánh Thần.” (17) Nó ngụ ý sự công nhận quyền của các Giáo hội Đông phương được “tự quản lý theo kỷ luật của họ” (UR 16), đặc biệt liên quan đến việc bầu chọn giám mục.
Mô hình này có thể bao gồm hai trách nhiệm được xác định bởi các cuộc đối thoại liên quan đến chức vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma: một vai trò cụ thể trong các công đồng chung (như triệu tập và chủ trì; xem Tài liệu nghiên cứu §106), và vai trò hòa giải trong trường hợp xung đột về bản chất kỷ luật hoặc giáo lý, thông qua việc thực thi thủ tục kháng cáo theo quy trình của hội đồng (như được mô tả trong ví dụ của Công đồng Sardica, 343; xem Tài liệu nghiên cứu §103, và cả UR 14).
27. Một số cộng đồng Kitô giáo phương Tây cũng công nhận thiên niên kỷ thứ nhất là điểm tham chiếu. Ngay cả khi một số vấn đề cơ bản về giáo hội học vẫn chưa được giải quyết, chẳng hạn như tính tông truyền và thừa tác vụ thụ phong, và bản chất bí tích và trật tự của Giáo hội, nhiều cuộc đối thoại thừa nhận nhu cầu về quyền tối thượng cho toàn thể Giáo hội để thúc đẩy sự hiệp nhất và sứ mệnh của Kitô giáo. Đồng thời, họ nhấn mạnh đến tính tối thượng của Tin Mừng và sự cần thiết của việc thực thi tính tối thượng mang tính cộng đồng và hợp đoàn. Họ cũng nhấn mạnh đến giá trị giáo hội học của bình diện khu vực và nguyên tắc bổ trợ. Những cuộc đối thoại này đưa ra những hiểu biết và quan điểm quan trọng hướng đến việc thực thi một thừa tác vụ hiệp nhất có thể chấp nhận được của Giám mục Rôma, tính tối thượng của việc công bố và làm chứng (kerigma-martyria), có thể được các Kitô hữu phương Tây khác tiếp nhận ngay cả trước khi khôi phục lại sự hiệp thông trọn vẹn.
28. Cuối cùng, việc thực thi đổi mới tính tối thượng phải được mô phỏng theo diakonia. Thẩm quyền và sự phục vụ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò của Phêrô trong việc củng cố anh em (Luca 22:32) là sự lãnh đạo của một việc phục vụ dựa trên ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của chính mình. “tính tối thượng của phục vụ, thừa tác và tình yêu” được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nêu ra, “sự phục vụ của tình yêu” được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề xuất, là một thừa tác vụ hiệp nhất được hiểu là mục vụ của “servus servorum Dei [đầy tớ các đầy tớ của Thiên Chúa] ” (ES 114; UUS 88 trích dẫn Đức Giáo Hoàng Gregory Cả). Thừa tác vụ này liên kết chặt chẽ với sự tự hạ mình và hy sinh bản thân của Chúa Kitô đã trải qua chính là để “tất cả nên một” (Ga 17:21). Do đó, tính tối thượng phải bắt nguồn từ mầu nhiệm Thập giá và được mô phỏng theo tấm gương tự hủy của Chúa Kitô.
Sự Hiệp Nhất, Một Hồng Ân Của Chúa Thánh Thần
29. Chủ nghĩa đại kết tâm linh là linh hồn của phong trào đại kết (UR 8). Một chiều kích quan trọng của chủ nghĩa đại kết tâm linh là các cuộc hành hương, đã đóng “vai trò quan trọng trong việc cổ vũ sự hiệp thông và thông đạt giữa các tín hữu trong các giáo hội của chúng ta” (OO–C 2009, 68). Nhiều Kitô hữu từ các truyền thống khác nhau hành hương đến Rôma để viếng thăm mộ của các Thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Sự sùng kính chung như vậy đã là một biểu thức mạnh mẽ của mối liên kết hiệp thông bắt nguồn từ đức tin tông truyền. Là người bảo vệ những nơi thánh thiêng này, Giáo hội Rôma có trách nhiệm cụ thể trong việc chào đón những người hành hương này từ các cộng đồng Kitô giáo khác và hỗ trợ lời cầu nguyện và lòng sùng kính của họ. Theo tinh thần đại kết, việc cung cấp cho họ, chẳng hạn như các nhà nguyện dành riêng, có thể đóng vai trò làm nền tảng tinh thần trong quá trình tìm kiếm sự hiệp nhất.
30. Một trong những trực giác căn bản của phong trào đại kết là sự hiệp nhất mà các Kitô hữu mong muốn sẽ không phải là thành quả chủ yếu của những nỗ lực của chính họ, cũng không phải là kết quả của bất cứ mô hình hay bản thiết kế nào được hình thành trước. Thay vào đó, sự hiệp nhất sẽ là một hồng ân nhận được “như Chúa Kitô muốn và bằng những phương tiện mà Người muốn” (Lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Cha Paul Couturier), thông qua công việc của Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, các đề xuất thu thập được từ các cuộc đối thoại đại kết và từ các phản hồi cho thông điệp Ut unum sint có thể đóng vai trò là những biển chỉ đường cho các Giáo hội, với sự tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần đang làm việc để soi sáng con đường hướng tới một thừa tác vụ hiệp nhất có thể chấp nhận được cho sự hiệp thông của các Giáo hội như Chúa Kitô muốn. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: “Sự hiệp nhất sẽ không đến như một phép lạ vào phút cuối. Thay vào đó, sự hiệp nhất đến trong hành trình; Chúa Thánh Thần thực thi điều này trên hành trình. Nếu chúng ta không cùng nhau bước đi, nếu chúng ta không cầu nguyện cho nhau, nếu chúng ta không cộng tác theo nhiều cách mà chúng ta có thể trong thế giới này cho dân Chúa, thì sự hiệp nhất sẽ không đến! Nhưng nó sẽ diễn ra trên hành trình này, trong mỗi bước chân chúng ta bước đi. Và không phải chúng ta đang làm điều này, mà là Chúa Thánh Thần, Đấng nhìn thấy thiện chí của chúng ta.” (18)
Ghi Chú
(1). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bài giảng cho Kinh Chiều về Lễ trọng của Thánh Phaolô Tông đồ, ngày 25 tháng 1 năm 2014.
(2). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn gửi Nhóm công tác chung Chính thống giáo-Công Giáo Thánh Irenaeus
(3). Một Giáo hội đồng nghị trong sứ mệnh, Báo cáo tổng hợp của Đại hội đồng thường lệ XVI của Thượng hội đồng giám mục (4–29 tháng 10 năm 2023), 13.a. 7.
(4). Báo cáo thứ chín của Nhóm công tác chung giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Hội đồng các Giáo hội Thế giới (2007–2012), Phụ lục A “Tiếp nhận: Chìa khóa cho Tiến trình Đại kết” §15.
(5). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn gửi các thành viên của Ủy ban quốc tế chung về Đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo hội Chính thống giáo phương Đông, 26 tháng 1 năm 2024.
(6). Xem Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội, 185–188
(7). Ủy ban Thần học Quốc tế phân biệt trong quy trình ra quyết định của công đồng “thông qua việc thực thi chung sự phân định, tham vấn và hợp tác”, với việc ra quyết định, xem Synodality in the Life and the Mission of the Church (2018), 69. 15.14.
(8). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Phép lành Tòa thánh "Urbi et Orbi". Lời chào đầu tiên từ Loggia Trung tâm của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, ngày 13 tháng 3 năm 2013.
(9). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn đánh dấu kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015.
(10). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn gửi đến những người tham gia Hội nghị do Hội Luật của các Giáo hội Đông phương cổ vũ, ngày 19 tháng 9 năm 2019.
(11). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn gửi đến Đức Mar Awa III, Thượng phụ Giáo hội Assyria Đông phương, ngày 19 tháng 11 năm 2022.
(12). Xem, ví dụ, đề xuất của Thượng phụ Maximus IV về một “thượng hội đồng thường trực” theo mô hình của các synodos endemousa Đông phương (xem bên dưới § 22); hoặc gợi ý thành lập một “Hội đồng Mục vụ Chung” mới ở bình diện phổ quát của Giáo Hội Công Giáo, bao gồm cả giáo dân, theo mô hình của một số cộng đồng phương Tây (xem Tài liệu Nghiên cứu § 155).
(13). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn gửi đến những người tham dự Hội nghị do Hội Luật của các Giáo hội Đông phương cổ vũ, ngày 19 tháng 9 năm 2019.
(14). Thủ bút [Chirograph] theo đó một Hội đồng Hồng Y được thành lập để hỗ trợ Đức Thánh Cha trong việc quản lý trị Giáo hội hoàn vũ và nghiên cứu các bản sửa đổi có thể có của Tông Hiến ‘Pastor Bonus’ về Giáo triều Rôma, ngày 28 tháng 9 năm 2013.
(15). Acta Synodalia Sacrosanti Concilii Œcumenici Vaticani II, tập 2, đoạn 4, Città del Vaticano, trang 517–518.
(16). Những lời này của Hồng Y Ratzinger được trích dẫn trong Phản hồi cho Ut unum sint của Hội đồng Giám mục của Giáo hội Anh (1997), xem Tài liệu nghiên cứu §91. Đức Hồng Y Ratzinger đã làm sáng tỏ thêm ý tưởng này bằng cách nói rằng việc bỏ qua những diễn biến của thiên niên kỷ thứ hai sẽ đại diện cho “một cuộc chạy trốn vào cái nhân tạo cần phải kiên quyết chống lại”, J. Ratzinger, Đối thoại Anh giáo–Công Giáo, Insight, 1 (1983), trang 2–11, tại đây trang 7; xem Tài liệu nghiên cứu §§ 109, 171.
(17). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn trong Phụng vụ Thánh, Nhà thờ Thượng phụ St George, Istanbul, ngày 30 tháng 11 năm 2014.
(17). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn trong Phụng vụ Thánh, Nhà thờ Thượng phụ St George, Istanbul, ngày 30 tháng 11 năm 2014.
(18). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bài giảng cho Kinh Chiều vào Lễ trọng kính Thánh Phaolô Tông đồ, ngày 25 tháng 1 năm 2014.
Còn 1 kỳ