TÓM LƯỢC
161. Sự hiểu biết và thực thi thừa tác vụ của Giám mục Rôma đã bước vào một giai đoạn mới với Công đồng Vatican II.
Kể từ đó, chiều kích đại kết đã trở thành một khía cạnh thiết yếu của thừa tác vụ này, như được minh họa bởi các giáo hoàng kế tiếp. Lời mời gọi của Đức Gioan Phaolô II trong Ut unum sint để tìm ra, với sự giúp đỡ của các Mục tử và các nhà thần học của tất cả các Giáo hội, một cách thực thi quyền tối thượng “được tất cả những người liên quan công nhận”, đã đánh dấu một thời điểm mang tính thời đại trong nhận thức đại kết này. Lời mời gọi đó được hỗ trợ đặc biệt trong bối cảnh triều đại của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người có giáo huấn và thực hành nhấn mạnh đến chiều kích đồng nghị của thừa tác vụ của ngài.
Suy Nghĩ Đại Kết Về Thừa Tác Vụ Của Giám Mục Rôma
162. Lời mời gọi trong Ut unum sint đã gợi ra nhiều phản hồi và suy tư đại kết. Các cuộc đối thoại thần học đại kết, chính thức và không chính thức, quốc gia và quốc tế, được khởi xướng sau Công đồng Vatican II, cũng đã chứng minh, trong những thập niên qua, là nơi đặc quyền để nghiên cứu về một thừa tác vụ hiệp nhất ở bình diện hoàn cầu. Xác định các chủ đề và quan điểm chính, chúng minh họa mối quan tâm đến chủ đề này và những diễn biến trong cuộc thảo luận với các truyền thống Kitô giáo khác nhau. Chúng cũng chứng minh một tinh thần đại kết mới và tích cực trong việc thảo luận về vấn đề này.
163. Bầu không khí mới này chỉ ra mối quan hệ tốt đẹp được thiết lập giữa các cộng đồng Kitô giáo, và đặc biệt giữa các nhà lãnh đạo của họ. Vào thời điểm mà mối quan hệ giữa các Giáo hội đang củng cố, thì “tình anh em được tái khám phá” (UUS 42) này cũng nên được đọc lại về mặt thần học, cùng với những khác biệt về tín điều trong quá khứ. Cuộc sống của các mối quan hệ này bao gồm nhận thức ngày càng tăng về ‘trách nhiệm giải trình lẫn nhau’ giữa các cộng đồng Kitô giáo.
164. Cần lưu ý rằng mối quan tâm, sự nhấn mạnh và kết luận của các cuộc đối thoại khác nhau thay đổi tùy theo các truyền thống tuyên tín liên quan. Hơn nữa, không phải tất cả các cuộc đối thoại thần học đều đề cập đến chủ đề này ở cùng một bình diện hoặc cùng một chiều sâu. Nếu một số đã dành toàn bộ tài liệu cho chủ đề này, thì những người khác chỉ đề cập đến nó trong bối cảnh của các tài liệu rộng hơn, trong khi những người khác vẫn chưa đề cập đến vấn đề này.
Tuy nhiên, không muốn làm lu mờ những cách tiếp cận và điểm nhấn khác nhau này, chúng ta có thể xác định được những thành quả sau đây.
Các Cách Tiếp Cận Mới Đối Với Các Vấn Đề Thần Học Mà Theo Truyền Thống Vốn Bị Tranh Cãi
165. Một trong những thành quả của các cuộc đối thoại thần học là việc đọc lại các 'bản văn Phêrô', vốn từ lâu đã là một rào cản lớn giữa các Ki-tô hữu. Các đối tác đối thoại đã được thách thức tránh những dự đoán lạc hậu về các diễn biến tín lý sau này và xem xét lại vai trò của Phêrô trong số các tông đồ. Trên cơ sở của sự chú giải đương thời và nghiên cứu giáo phụ, những hiểu biết mới và sự làm giàu lẫn nhau đã đạt được, thách thức một số cách giải thích theo tín điều truyền thống. Một sự đa dạng về hình ảnh, cách diễn giải và mô hình trong Tân Ước đã được khám phá lại, trong khi các khái niệm trong Kinh thánh như episkopè (chức vụ giám sát), diakonia [phục vụ] và khái niệm ‘chức năng Phêrô’ đã giúp phát triển một sự hiểu biết toàn diện hơn về ‘các bản văn Phêrô’.
166. Một vấn đề gây tranh cãi khác là cách hiểu của Công Giáo về quyền tối thượng của Giám mục Rôma được thiết lập de iure divino [thần quyền], trong khi hầu hết các Kitô hữu khác hiểu rằng quyền này chỉ được thiết lập de iure humano [nhân quyền]. Các minh giải về mặt chú giải đã giúp đưa vào một góc nhìn mới về sự phân đôi [dichotomy] truyền thống này, bằng cách xem quyền tối thượng là cả de iure divino lẫn de iure humano, tức là trở thành một phần trong ý muốn của Thiên Chúa đối với Giáo hội và được truyền đạt qua lịch sử loài người. Thay thế sự phân biệt giữa de iure divino và de iure humano các cuộc đối thoại thay vào đó nhấn mạnh sự phân biệt giữa yếu tính thần học và sự ngẫu nhiên lịch sử của quyền tối thượng – như được diễn đạt trong Ut unum sint (UUS 95). Trên cơ sở này, chúng kêu gọi chú ý nhiều hơn và đánh giá bối cảnh lịch sử đã điều kiện hóa việc thực thi quyền tối thượng ở các khu vực và thời kỳ khác nhau.
167. Các định nghĩa tín điều của Công đồng Vatican I là một trở ngại đáng kể đối với các Ki-tô hữu khác. Một số cuộc đối thoại đại kết đã ghi nhận những tiến bộ đầy hứa hẹn khi thực thi việc 'đọc lại' hoặc 'tiếp nhận lại' Công đồng này, mở ra những con đường mới để hiểu chính xác hơn về giáo huấn của Công đồng. Cách tiếp cận giải thích này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải thích các tuyên bố tín điều của Công đồng Vatican I không phải một cách riêng lẻ, mà theo ánh sáng của bối cảnh lịch sử, ý định và sự tiếp nhận chúng - đặc biệt là thông qua giáo huấn của Công đồng Vatican II.
168. Nghiên cứu lịch sử bản văn Pastor æternus, và đặc biệt là các thủ tục của Công đồng và bối cảnh quy định việc lựa chọn các thuật ngữ được sử dụng (‘thông thường’, ‘trực tiếp’, ‘ngay lập tức’), một số cuộc đối thoại đã có thể làm rõ định nghĩa tín điều về quyền tài phán phổ quát, bằng cách xác định phạm vi mở rộng và giới hạn của nó. Tương tự như vậy, họ đã có thể làm rõ cách diễn đạt của tín điều về ơn bất khả ngộ và thậm chí là đồng ý về một số khía cạnh về mục đích của nó, nhận ra nhu cầu, trong một số trường hợp, đối với việc thực thi cá vị chức vụ giảng dạy, vì sự hiệp nhất của Kitô hữu là sự hiệp nhất trong chân lý và tình yêu. Bất chấp những giải thích này, các cuộc đối thoại vẫn bày tỏ mối quan tâm liên quan đến mối quan hệ giữa ơn bất khả ngộ với quyền tối thượng của Tin mừng, tính bất khả khuyết của toàn thể Giáo hội, việc thực thi tính hợp đoàn giám mục và sự cần thiết của việc tiếp nhận.
Các Góc Nhìn Cho Một Thừa Tác Vụ Hiệp Nhất Trong Một Giáo Hội Đã Được Hòa Giải
169. Những cách tiếp cận mới này đối với các câu hỏi thần học cơ bản do quyền tối thượng ở bình diện phổ quát nêu ra đã mở ra những góc nhìn mới cho một thừa tác vụ hiệp nhất trong một Giáo hội đã được hòa giải. Nhiều cuộc đối thoại thần học và phản hồi đối với Ut unum sint, chủ yếu dựa trên các lập luận liên quan đến bene esse [lợi ích] hơn là esse [yếu tính] của Giáo hội, thừa nhận yêu cầu về quyền tối thượng ở bình diện phổ quát. Đề cập đến truyền thống tông đồ, một số cuộc đối thoại cho rằng, từ Giáo hội sơ khai, Kitô giáo đã được thành lập trên các tòa tông đồ lớn chiếm một trật tự cụ thể, tòa Rôma là tòa đầu tiên. Dựa trên các xem xét về giáo hội học, một số cuộc đối thoại đã chủ trương rằng có sự phụ thuộc lẫn nhau của quyền tối thượng và tính đồng nghị ở mọi bình diện của đời sống Giáo hội: địa phương, khu vực, nhưng cũng phổ quát. Một lập luận khác, có tính chất thực dụng hơn, được thành lập trên bối cảnh hoàn cầu hóa đương thời và trên các yêu cầu truyền giáo.
170. Các cuộc đối thoại thần học, đặc biệt là với các Giáo hội Chính thống giáo và Chính thống giáo Đông phương, thừa nhận rằng các nguyên tắc và mô hình hiệp thông được tôn vinh trong thiên niên kỷ đầu tiên (hoặc, đối với sau này, cho đến giữa thế kỷ thứ năm), vẫn mang tính mẫu mực. Thật vậy, trong thời kỳ đó, các Kitô hữu từ Đông và Tây đã sống trong sự hiệp thông mặc dù có một số rạn nứt tạm thời, và các cấu trúc thiết yếu của Giáo hội đã được thành lập và chia sẻ. Một số tiêu chuẩn của thiên niên kỷ đầu tiên đã được xác định là điểm tham chiếu và nguồn cảm hứng cho việc thực thi có thể chấp nhận được một thừa tác vụ hiệp nhất ở bình diện phổ quát, chẳng hạn như: tính chất không chính thức – và không chủ yếu là thẩm quyền – của các biểu thức hiệp thông giữa các Giáo hội; ‘quyền tối thượng danh dự’ của Giám mục Rôma; sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các chiều kích tối thượng và đồng nghị của Giáo hội như được minh họa trong Điều luật Tông đồ 34; quyền kháng cáo như một biểu thức hiệp thông (Điều luật Sardica); tính chất mẫu mực của các công đồng đại kết; và sự đa dạng của các mô hình giáo hội.
171. Mặc dù thiên niên kỷ đầu tiên có tính quyết định, nhiều cuộc đối thoại công nhận rằng không nên lý tưởng hóa hay chỉ đơn giản là tái tạo nó, vì những diễn biến của thiên niên kỷ thứ hai không thể bị bỏ qua và cũng vì quyền tối thượng ở bình diện phổ quát phải đáp ứng được những thách thức đương thời. Một số nguyên tắc để thực thi quyền tối thượng trong thế kỷ 21 đã được xác định. Một thỏa thuận chung đầu tiên là sự phụ thuộc lẫn nhau của quyền tối thượng và tính đồng nghị ở mỗi bình diện của Giáo hội, và yêu cầu tiếp theo đối với việc thực thi quyền tối thượng một cách đồng nghị. Một thỏa thuận khác liên quan đến sự kết hợp giữa 'tất cả', 'một số' và 'một', ba chiều kích bổ sung của Giáo hội, ở mỗi bình diện giáo hội: chiều kích 'cộng đồng' dựa trên sensus fideicủa tất cả những người đã chịu phép rửa tội; chiều kích 'hợp đoàn', được phát biểu đặc biệt trong tính hợp đoàn giám mục; và chiều kích 'cá vị' được thể hiện trong chức năng tối thượng. Các cuộc đối thoại khác nhau xác định động lực đồng nghị vốn có trong việc kết hợp ba chiều kích này.
172. Suy tư đại kết cũng đã góp phần vào việc công nhận việc chức năng Phêrô phải được hiểu trong bối cảnh một quan điểm giáo hội học rộng hơn. Khi xem xét quyền tối thượng, nhiều cuộc đối thoại thần học đã lưu ý rằng ba chiều kích này - cộng đồng, hợp đoàn và cá vị - đều hoạt động trong mỗi ba bình diện của Giáo hội: địa phương, khu vực và hoàn vũ. Về vấn đề này, một vấn đề quan trọng là mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ, có những hậu quả quan trọng đối với việc thực thi quyền tối thượng. Các cuộc đối thoại đại kết đã giúp mang lại sự đồng thuận về tính đồng thời của các chiều kích này, nhấn mạnh rằng không thể tách rời mối quan hệ biện chứng giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ.
173. Một cân nhắc quan trọng khác liên quan đến các bình diện khác nhau trong Giáo hội là ý nghĩa giáo hội học của chiều kích khu vực hoặc siêu địa phương trong Giáo hội. Nhiều cuộc đối thoại nhấn mạnh sự cần thiết phải cân bằng giữa việc thực thi quyền tối thượng ở bình diện khu vực và hoàn vũ, lưu ý rằng trong hầu hết các cộng đồng Kitô giáo, bình diện khu vực là bình diện có liên quan nhất đến việc thực thi quyền tối thượng và cũng như hoạt động truyền giáo của họ. Một số cuộc đối thoại thần học với các cộng đồng Kitô giáo phương Tây, quan sát thấy sự 'bất đối xứng' giữa các cộng đồng này và Giáo Hội Công Giáo, kêu gọi tăng cường các hội đồng giám mục Công Giáo, bao gồm ở bình diện lục địa, và cho một ‘sự tản quyền’ liên tục lấy cảm hứng từ mô hình của các Giáo hội thượng phụ cổ thời.
174. Tầm quan trọng của bình diện khu vực cũng được ủng hộ trong các cuộc đối thoại với các Giáo hội Chính thống giáo và Chính thống giáo phương Đông, nhấn mạnh sự cần thiết của việc cân bằng giữa quyền tối thượng và các quyền tối thượng. Các cuộc đối thoại này nhấn mạnh rằng “nỗ lực đại kết của các Giáo hội Chị em Đông và Tây, dựa trên đối thoại và cầu nguyện, là tìm kiếm sự hiệp thông hoàn hảo và toàn diện không phải là sự hấp thụ hay hợp nhất mà là một cuộc gặp gỡ trong chân lý và tình yêu” (O–C 1993, 14). Trong một Kitô giáo hòa giải, sự hiệp thông như vậy giả định rằng “mối quan hệ của Giám mục Rôma với các Giáo hội Đông phương và các giám mục của họ […] sẽ phải khác biệt đáng kể so với mối quan hệ hiện được chấp nhận trong Giáo hội Latinh” (O–C US 2010, 7a), và rằng các Giáo hội sẽ “tiếp tục có quyền và quyền lực để tự quản theo truyền thống và kỷ luật của riêng mình” (Coptic–Catholic dialogue, 1979).
175. Đối thoại Chính thống giáo–Công Giáo cũng cho phép một cách đọc có phê phán mới về hiện tượng ‘chủ nghĩa qui hiệp’, có liên quan chặt chẽ đến vấn đề về quyền tối thượng và một giáo hội học tuyên bố quyền tài phán trực tiếp của Tòa Rôma đối với tất cả các Giáo hội địa phương, “không còn có thể được chấp nhận như một phương pháp cần tuân theo hoặc như một mô hình về sự hiệp nhất mà các Giáo hội của chúng ta đang tìm kiếm” (O–C, 1993, 12).
Hiện tượng lịch sử của 'chủ nghĩa qui hiệp’ vẫn nên được phân biệt với thực tại hiện nay của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, đại diện cho một mô hình cụ thể của 'sự hợp nhất trong sự đa dạng' do địa vị sui iuris của họ trong Giáo Hội Công Giáo duy trì quyền tự chủ của họ trong các cấu trúc đồng nghị. Tuy nhiên, các Giáo hội Chính thống giáo và Chính thống giáo Đông phương không công nhận mối quan hệ hiện tại với Rôma của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương như một mô hình cho sự hiệp thông trong tương lai.
176. Những xem xét liên quan đến các bình diện khác nhau của Giáo hội dẫn đến sự suy tư về nguyên tắc bổ trợ. Nguyên tắc này có nghĩa là bất cứ vấn đề nào có thể được giải quyết đúng đắn ở bình diện thấp hơn không nên được đưa lên bình diện cao hơn. Nguyên tắc bổ trợ được công nhận là một nguyên tắc quan trọng nếu việc thực thi quyền tối thượng là để đảm bảo sự tham gia của toàn thể Giáo hội vào quá trình ra quyết định.
Một số cuộc đối thoại áp dụng nguyên tắc này trong việc xác định một mô hình có thể chấp nhận được về 'sự hợp nhất trong sự đa dạng' với Giáo Hội Công Giáo. Họ lập luận rằng quyền lực của Giám mục Rôma không nên vượt quá quyền lực cần thiết để thực thi chức vụ hiệp nhất của mình ở bình diện hoàn cầu, và đề xuất một giới hạn tự nguyện trong việc thực thi quyền lực của mình – trong khi nhận ra rằng ngài sẽ cần một lượng thẩm quyền đủ để đáp ứng nhiều thách thức và nghĩa vụ phức tạp liên quan đến thừa tác vụ của mình.
Một Số Gợi Ý Thực Tế
177. Trong suốt các cuộc đối thoại và phản hồi đại kết đối với Ut unum sint liên quan đến quyền tối thượng, nhiều đề xuất hoặc yêu cầu thực tế đã được đưa ra cho các cộng đồng Kitô giáo khác nhau, và đặc biệt là Giáo Hội Công Giáo. Vì nhiệm vụ đại kết đầu tiên của người Công Giáo là “xem xét lòng trung thành của chính họ đối với ý muốn của Chúa Kitô đối với Giáo hội và theo đó thực thi mạnh mẽ nhiệm vụ đổi mới và cải cách” (UR 4), họ được mời gọi nghiêm túc xem xét các đề xuất được đưa ra cho họ để có thể hiểu và thực thi quyền tối thượng của giáo hoàng một cách mới mẻ có thể góp phần vào việc khôi phục sự hiệp nhất của Kitô giáo.
178. Đề xuất đầu tiên là một 'sự tiếp nhận lại', 'diễn giải lại', 'diễn giải chính thức', 'bình luận cập nhật' hoặc thậm chí là 'diễn đạt lại' của Công Giáo về những lời dạy của Công đồng Vatican I. Thật vậy, một số cuộc đối thoại nhận xét rằng những lời dạy này chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi bối cảnh lịch sử của chúng, và đề xuất rằng Giáo Hội Công Giáo nên tìm kiếm những cách diễn đạt và từ vựng mới trung thành với ý định ban đầu nhưng được tích hợp vào một giáo hội học communio [hiệp thông] và được điều chỉnh theo bối cảnh văn hóa và đại kết hiện nay.
179. Một đề xuất thứ hai do một số cuộc đối thoại đại kết đưa ra là phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của Giám mục Rôma, đặc biệt là giữa thừa tác vụ thượng phụ của ngài trong Giáo hội phương Tây và thừa tác vụ tối thượng của ngài về sự hiệp nhất trong sự hiệp thông của các Giáo hội, cả phương Tây và phương Đông, có thể mở rộng ý tưởng này để xem xét cách các Giáo hội phương Tây khác có thể liên hệ với Giám mục Rôma như một giáo chủ trong khi vẫn có một số quyền tự chủ nhất định của chính họ. Cũng cần phải phân biệt các vai trò thượng phụ và tối thượng của Giám mục Rôma với chức năng chính trị của ngài như nguyên thủ quốc gia. Việc nhấn mạnh hơn vào việc thực thi thừa tác vụ của Giáo hoàng trong Giáo hội riêng của ngài, tức giáo phận Rôma, sẽ làm nổi bật thừa tác vụ giám mục mà ngài chia sẻ với các giám mục anh em của mình, và đổi mới hình ảnh của giáo hoàng.
180. Một khuyến nghị thứ ba do các cuộc đối thoại thần học đưa ra liên quan đến sự phát triển của tính đồng nghị trong Giáo Hội Công Giáo. Nhấn mạnh vào mối quan hệ qua lại giữa việc định hình đồng nghị ad intra [đối nội] của Giáo Hội Công Giáo và độ tin cậy của các cam kết đại kết của giáo hội ad extra [đối ngoại], họ đã xác định những lĩnh vực mà một tính đồng nghị ngày càng tăng là cần thiết trong Giáo Hội Công Giáo. Họ đặc biệt đề xuất suy tư thêm về thẩm quyền của các hội đồng giám mục Công Giáo quốc gia và khu vực, mối quan hệ của họ với Thượng hội đồng giám mục và với Giáo triều Rôma. Ở bình diện phổ quát, họ nhấn mạnh nhu cầu phải có sự tham gia tốt hơn của toàn thể dân Chúa vào các tiến trình đồng nghị. Theo tinh thần 'trao đổi quà tặng', các thủ tục và định chế đã hiện hữu trong các cộng đồng Kitô giáo khác có thể đóng vai trò làm nguồn cảm hứng.
181. Một đề xuất cuối cùng là cổ vũ 'tình hiệp thông công đồng' thông qua các cuộc họp thường kỳ giữa các nhà lãnh đạo Giáo hội ở bình diện hoàn cầu để làm cho sự hiệp thông mà họ đã chia sẻ trở nên rõ ràng và sâu sắc hơn. Cũng theo tinh thần này, nhiều cuộc đối thoại đã đề xuất các sáng kiến khác nhau để cổ vũ tính đồng nghị giữa các Giáo hội, đặc biệt ở bình diện giám mục và giáo chủ, thông qua các cuộc tham vấn thường xuyên và hành động và chứng tá chung.
Còn tiếp