4. Hy vọng ơn cứu rỗi của mọi người

Gia đình đang trải qua một cuộc khủng hoảng văn hóa sâu sắc.

... Hôn nhân ngày nay có xu hướng được coi là một hình thức thỏa mãn cảm xúc đơn thuần có thể được xây dựng theo bất cứ cách nào hoặc sửa đổi theo ý muốn. Nhưng sự đóng góp không thể thiếu của hôn nhân cho xã hội vượt lên trên tình cảm và nhu cầu nhất thời của vợ chồng. (32)

Giáo hội đang phải đối diện với những thách thức văn hóa sâu sắc trong thế giới phương Tây, hậu Kitô giáo này. Những thách thức này không phải ngẫu nhiên mà thực ra chúng xuất phát trực tiếp từ sự đổ vỡ và sự tấn công trực tiếp chống lại hôn nhân mà chúng ta thấy ở rất nhiều nơi. Việc thực hành và định chế hóa dân sự các hình thức đa thê và đa phu lâu đời (33) đã vượt qua cấu trúc xã hội và pháp lý đối với tình yêu hôn nhân giữa nam và nữ, và do đó xã hội của chúng ta đang hướng tới một xác tín văn hóa và tâm lý cho rằng tình yêu con người và tính hiệp nhất vợ chồng và sinh hoa trái của nó là điều không thể thực hiện được và có lẽ hoàn toàn vô nghĩa.

Các mối quan hệ rối loạn thực tế giữa nam và nữ, sự tan vỡ thực sự của việc chung sống tự phát, sự kết hợp tự do và tạm bợ, sự thay đổi bạn tình không ngừng và sự kết hợp đồng tính dường như làm cho tình yêu vợ chồng của con người trở nên không thể sống được và không thể chịu đựng được trong đòi hỏi của nó về sự chung thủy và sinh hoa trái. Cái hiểu hư vô chủ nghĩa về tự do trống rỗng như là nội dung duy nhất của tính chủ quan nhân bản làm suy yếu khả thể tình yêu trở thành nhân bản, sống còn, đáng vui hưởng và đáng hy sinh cho. Mối quan hệ đa thê đại diện cho một ảo tưởng lớn về một hình thức thỏa mãn mang tính quan hệ nhẹ ký hơn, lấy bản thân làm trung tâm. Niềm khao khát tình yêu vô hạn của con người được đáp trả trong việc hiến thân trọn vẹn, hoàn toàn và lâu dài chứa đựng trong những lời thề hôn nhân; vô số đối tác không chỉ khiến mong muốn này không được đáp lại mà còn che giấu tình yêu thực sự là gì. Hợp đồng đồng thuận (34) trở thành cách khả hữu duy nhất để thiết lập, ngay cả đối với tình yêu nhân bản, bất cứ loại ổn định xã hội và pháp lý nào cho các mục tiêu kinh tế, sức khỏe và sinh sản. Như vậy tình yêu bị giản lược thành một cảm giác xúc động: thể xác không còn tương ứng và không thể diễn tả được thực tại của tình yêu nữa. Những quan hệ đối tác có thể thay thế được và không ổn định trong các kết hợp tình dục và tình cảm chỉ cần hình thức tối thiểu của một khế ước xã hội để có giá trị pháp lý. Kết quả là, những mối quan hệ hợp tác như vậy nhanh chóng tan biến. Trớ trêu thay, cách tiếp cận mang tính pháp lý và bên ngoài này lại trở thành hình thức công khai đảm bảo cho sự hình thành liên tục của các mối quan hệ mới lấy mình làm trung tâm và mang tính cá nhân chủ nghĩa. Trong bốn thập niên qua, việc giải phóng tình yêu chủ quan bản thân khỏi sự ưng thuận pháp lý và định chế của vợ chồng đã trở thành một vấn đề trọng tâm trong thần học luân lý và mục vụ. Cuộc cách mạng tình dục vào những năm 60 đặc biệt ủng hộ bất cứ sự tự do phát biểu tình yêu tính dục không có bất cứ quy định pháp lý nào, dẫn đến hậu quả là việc đấu tranh để được công nhận về mặt pháp lý đối với bất cứ hình thức kết hợp dân sự nào ngày nay đã trở nên quan trọng đối với sự tiến bộ của xã hội hậu hiện đại của chúng ta.

Hơn nữa, trong bối cảnh văn hóa khó khăn này, sự tham gia mục vụ của Giáo hội với những người ly dị và tái hôn nói lên một thách thức mục vụ có trọng tâm hơn những gì một số cơ quan giáo hội và giới truyền thông tuyên bố. Thay vì cố gắng nới lỏng mối tương quan bí tích giữa tình yêu phu thê của Thiên Chúa và tình yêu vợ chồng của chúng ta thông qua những thay đổi mục vụ không cần thiết đối với những người ly dị và tái hôn, Giáo hội cần phải kiên trì làm chứng cho sự mới mẻ đầy đòi hỏi của Tin Mừng gia đình của Chúa Kitô. Việc không củng cố yêu cầu chung thủy cho đến chết của tình yêu với lý do nhượng bộ hoặc ngoại lệ sẽ đưa Giáo hội đến chỗ trở nên trần tục, tầm thường và không có khả năng truyền đạt tình yêu Thiên Chúa về mặt mục vụ. Tham gia vào những thách thức của chế độ đa thê tân ngoại giáo và chế độ đa thê của các nền văn hóa phương Tây đang hấp hối của chúng ta, các mục tử Công Giáo và các tín hữu cần đào sâu chứng từ của mình và đưa ra những lý do tốt hơn về lý do tại sao và như thế nào, trong tình yêu phu thê của Chúa Giêsu Kitô dành cho Giáo hội, đàn ông và đàn bà vẫn có thể yêu nhau một cách chung thủy, sinh hoa trái và ngày nay hơn bao giờ hết. (35) Làm chứng cho Tin Mừng đòi hỏi nhưng vui tươi về tình yêu phu thê của Thiên Chúa, chúng ta phải nỗ lực thuyết phục và hướng dẫn các thế hệ mới đừng sợ hãi về tình yêu, hôn nhân Kitô giáo và hoa trái của nó. Niềm vui và hạnh phúc thực sự mang tính nhân bản và chỉ có thể có được nơi Thập Giá và Phục Sinh của tình yêu Chúa Kitô. Ở đó, lòng thương xót luôn dành cho tất cả mọi người. Sẽ không phải bằng việc cải đạo, bằng việc áp đặt những nghĩa vụ mới mà Giáo hội, trong mối quan tâm mục vụ từ mẫu của mình, có thể phát triển, truyền giáo và khôi phục niềm vui đức tin, nhưng bằng sự thu hút của tình yêu hy sinh và hồng ân sự sống quảng đại. (36)

Đúng hơn, việc chăm sóc mục vụ nghiêm túc cho hôn nhân của những người ly dị và tái hôn nên quan tâm nhiều hơn đến chứng tá sống động của vợ chồng qua tình yêu hy sinh trong và cho thế giới. Trong hoàn cảnh hiện nay, phải tìm ra con đường cụ thể để thánh hóa bản thân trong việc làm môn đệ bị thương tích của Chúa Kitô trong Giáo hội dành cho những người ly dị và tái hôn, không phải qua đòi hỏi được thừa nhận về bí tích, nhưng qua tình yêu trung thành cho đến chết và tình yêu hy sinh cho việc sinh sản và giáo dục con cái. Họ không nên thúc ép một giải pháp sai lầm và được cho là mang tính mục vụ; đúng hơn, đức tin của họ, được củng cố qua việc cầu nguyện và tham gia phụng vụ vào đời sống thiêng liêng Kitô giáo dấn thân, phải được sống một cách hữu hiệu qua kiến thức và công việc chuyên môn của họ. Các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, tiếp thị, giáo dục, y học và truyền thông đều mở ra cho tất cả chúng ta, đặc biệt là những giáo dân này, như một cơ hội tuyệt vời để trở thành những chứng nhân trong sáng và sống động cho tình yêu biến đổi của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người. Do đời sống hôn nhân bị tổn thương trong Chúa Kitô, có thể họ không thể tham dự Bí tích Thánh Thể thông thường, nhưng với tư cách là thành viên thực sự của Giáo hội, họ có thể và được kêu gọi tham gia vào việc hy sinh bản thân vì tình yêu và làm việc cho các gia đình mới của họ và cống hiến sự đóng góp nghề nghiệp của họ cho việc thánh hóa thế giới bằng công việc, năng lực chuyên môn và việc phục vụ Kitô giáo cho người nghèo. Chỉ có một Giáo hội được thiết lập vững chắc trong việc hoàn thành sứ mạng của mình qua chiến thắng vượt qua của Chúa Kitô trong đời sống chúng ta mới có thể mang tất cả mọi thứ trong lòng mình hướng tới ơn cứu độ đời đời. Một Giáo hội được hỗ trợ bởi đức tin vượt qua mạnh mẽ vào sức mạnh cứu độ của Thập giá có thể thực sự dám hy vọng rằng tất cả mọi người có thể và sẽ được cứu rỗi, mặc dù cuộc hành hương của họ trên trái đất sẽ có liên quan khác nhau đến tính viên mãn bí tích lịch sử của đời sống giáo hội, tức Bí tích Thánh Thể. Sự bất lực về mục vụ và niềm xác tín suy yếu rằng những người ly dị và tái hôn có thể được thanh tẩy và cứu rỗi ngay cả khi không nhận Bí tích Thánh Thể có thể là một dấu hiệu tiêu cực của việc thiếu niềm tin và hy vọng vào sức mạnh cứu độ cánh chung của tình yêu. Vào cuối cuộc đời của chúng ta, tất cả—chín mươi chín con và một con chiên lạc—sẽ bị phán xét dựa trên tình yêu thương. (37)

FABRIZIO MERONI, PIME, là giáo sư trợ tá về nhân học thần học tại Viện Giáo hoàng Gioan Phaolô II nghiên cứu về Hôn nhân và Gia đình tại Đại học Công Giáo America.

Communio 41 (Mùa hè 2014). © 2014 bởi Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế
__________________________________________________________________________

Ghi Chú

1. Đức Phanxicô, Evangelii gaudium (sau đây gọi là EG), 285.

2. Như trên, 139.

3. Marc Ouellet, “Theological Perspectives on Marriage [Các quan điểm thần học về hôn nhân],” Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế 31 (Mùa thu 2004): 431.

4. X. như trên, 430.

5. X. Angelo Scola, “The Nuptial Mystery at the Heart of the Church [Mầu nhiệm hôn nhân ở trung tâm Giáo hội],” Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế 25 (Mùa đông 1998): 630–62.

6. Đức Gioan Phaolô II, Familiaris consortium (sau đây viết tắt là FC), 56, 75, 86.

7. Marc Ouellet, “Theological Perspectives on Marriage [Các quan điểm thần học về hôn nhân],” 428.

8. X. Joseph Ratzinger, “The Pastoral Approach to Marriage Should Be Founded on Truth” [Phương pháp mục vụ về hôn nhân nên được thiết lập trên sự thật]” (xuất bản lần đầu năm 1998 và tái bản trên L’Osservatore Romano vào ngày 30 tháng 11 năm 2011 với những chú thích mới). Cf. Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các vị Giám mục, các viên chức và những người bào chữa của Tòa Rota Rôma (Vatican City, 1 tháng 2 năm 2001). Cf. Đức Bênêđíctô XVI, Diễn văn khai mạc Năm Tư pháp của Tòa án Rota Rôma (Thành phố Vatican, 26 tháng 1 năm 2013).

9. X. Ủy ban Thần học Quốc tế, “Christological Theses on the Sacrament of Marriage [Luận đề Kitô học về Bí tích Hôn nhân]” (Vatican City, 1977), 7. Xem thêm Hans Urs von Balthasar, The Glory of the Lord: A Theological Aesthetics [Vinh quang của Chúa: Một Khoa thẩm mỹ Thần học], tập. 1: Seeing the Form [thấy hình thức], bản dịch của Erasmo Leiva-Merikakis (San Francisco: Ignatius Press, 2009), 27, bản dịch đã được sửa đổi: “Điều gì có thể mạnh mẽ hơn một cuộc hôn nhân, hay điều gì có thể định hình bất cứ hình thức sống cụ thể nào sâu sắc hơn hôn nhân? Và hôn nhân chỉ đúng với chính nó nếu nó là một loại giá đỡ [bracket] vừa vượt lên trên vừa chứa đựng mọi khao khát của một cá nhân muốn “thoát khỏi” những ràng buộc của nó và khẳng định bản thân. Hôn nhân là thực tại không thể hủy tiêu, dùng bàn tay sắt đối đầu với mọi khuynh hướng tan rã của hiện hữu, và nó buộc người đang chùn bước phải phát triển, vượt lên trên bản thân mình, để đạt được tình yêu thực sự bằng cách lên mô hình cuộc sống của mình theo khuôn mẫu đã được quy định. Khi họ đưa ra lời hứa, vợ chồng không dựa vào chính mình—những [đụn cát] tự do hay thay đổi của chính họ—mà đúng hơn vào hình thức đã chọn họ vì họ đã chọn nó, hình thức mà họ đã cam kết trong hành vi của họ như những ngôi vị. Như các ngôi vị, vợ chồng không những phó thác mình cho “người” yêu dấu và cho những quy luật sinh học về sinh sản và gia đình; trước hết họ giao phó bản thân cho một hình thức mà họ có thể hoàn toàn đồng nhất hóa mình ngay cả trong những khía cạnh sâu sắc nhất của nhân cách họ bởi vì hình thức này trải dài qua mọi bình diện của cuộc sống - từ nguồn gốc sinh học cho đến những đỉnh cao của ân sủng và của sự sống trong Chúa Thánh Thần.

... Cả hình thức hôn nhân nữa,mà từ đó, nảy sinh vẻ đẹp của cuộc sống con người, ngày nay hơn bao giờ hết được giao phó cho các Kitô hữu chăm sóc”.

10. FC, 84; Bênêđíctô XVI, Sacramentum caritatis [bí tích bác ái] sau đây gọi là SC), 29.

11. Ratzinger, “The Pastoral Approach to Marriage Should Be Founded on Truth [Phương pháp mục vụ về hôn nhân phải được đặt nền tảng trên sự thật].”

12. Hiển nhiên, sự sống được tạo ra ngay cả khi người đàn ông và người đàn bà dâng hiến cho nhau mà không có bất cứ sự hợp nhất vợ chồng không thể thu hồi nào, nhưng điều này chứng tỏ quy luật hơn là phủ nhận nó: cơ thể chúng ta (và quy luật tự nhiên) rộng lượng hơn chúng ta hiểu.

13. SC, 27.

14. X. Giovanni Cereti, Divorziati risposati. Un nuovo inizio è possibile [Ly hôn và tái hôn. Một khởi đầu mới là có thể]? (Assisi: Cittadella Editrice, 2009), 111.

15. Gerhard Müller, “Testimony to the Power of Grace: On the Indissolubility of Marriage and the Debate Concerning the Civilly Remarried and the Sacrament [Chứng ngôn về sức mạnh của ân sủng: Về tính bất khả tiêu của Hôn nhân và Cuộc tranh luận liên quan đến việc Tái hôn Dân sự và Bí tích],” L’Osservatore Romano (23 tháng 10 năm 2013).

16. EG, 47.

17. X. Cereti, Divorziati risposati, 51–80.

18. Đức Gioan Phaolô II, Letter to Families [Thư gửi các Gia đình] (sau đây gọi là LF), 9.

19. X. Mary F. Rousseau, “The Roots of Liberation [Nguồn gốc của sự giải phóng],” Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế 8 (Mùa thu 1981): 254.

20. FC, 80.

21. David S. Crawford, “Of Spouses, the Real World, and the ‘Where’ of Christian Marriage [Về vợ chồng, Thế giới thực, và ‘Nơi’ của Hôn nhân Kitô giáo],” Communio: International Catholic Review 33 (Mùa xuân 2006): 116.

22. X. Scola, “The Nuptial Mystery at the Heart of the Church [Mầu nhiệm hôn nhân ở trung tâm Giáo hội],” 648–53.

23. Hans Urs von Balthasar, “A Word on Humanae vitae [Một lời về thông điệp Humanae Vitae],” Communio: International Catholic Review 20 (Mùa hè 1993): 443.

24. X. Carlo Caffarra, “Marriage as a Reality in the Order of Creation and Marriage as a Sacrament [Hôn nhân như một thực tại trong trật tự sáng tạo và hôn nhân như một bí tích]” trong Richard Malone, Contemporary Perspectives on Christian Marriage: Propositions and Papers from the International Theologcal Commission [Những quan điểm đương thời về hôn nhân Kitô giáo: Những đề xuất và bài viết của Ủy ban thần học quốc tế] (Chicago: Nhà xuất bản Đại học Loyola, 1984), 117 –80.

25. FC, 84.

26. Ủy ban Thần học Quốc tế, “Christological Theses on the Sacrament of Marriage [Cac luận đề Kitô học về Bí tích Hôn nhân],” 12.

27. X. David L. Schindler, “Is Truth Ugly? Moralism and the Convert- ibility of Being and Love [Sự thật có xấu không? Chủ nghĩa luân lý và khả thể Hoán cải của hữu thể và tình yêu],” Communio: International Catholic Review 27 (Mùa đông 2000): 704.

28. Đức Gioan Phaolô II, Man and Woman He Created Them: A Theology of the Body [Đàn Ông và Đàn Bà Người đã Tạo dựng nên Họ: Thần học về Thân xác], bản dịch của Michael Waldstein (Boston: Pauline Books and Media, 2006), 177–90.

29. FC, 33.

30. Carlo Caffarra, “From Bologna with Love: Hold on a Moment [Từ Bologna với tình yêu: Chờ một chút!]” Il Foglio (14 tháng 3 năm 2014), tái bản bằng tiếng Anh vào ngày 24 tháng 3 năm 2014 với tựa đề “Cardinal Caffarra Expresses Serious Concerns About Family Synod Debates [Hồng Y Caffarra bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về các cuộc tranh luận tại Thượng hội đồng gia đình],”

http:// www.zenit.org/en/articles/cardinal-caffarra-expresses-serious-concerns- about-family-synod-debates.

31. Gioan Phaolô II, Đàn Ông và Đàn Bà Người đã Tạo dựng nên họ, 131–223.

32. EG, 66.

33. X. Thượng Hội đồng Giám mục, “Pastoral Challenges to the Family in the Con- text of Evangelization [Những thách thức mục vụ đối với gia đình trong bối cảnh Phúc âm hóa],” Tài liệu chuẩn bị cho Phiên họp Toàn thể bất thường lần thứ ba (Thành phố Vatican, 2013).

34. X. Michael Novak, “Man and Woman He Made Them [Đàn ông và Đàn bà Người đã tạo nên họ,” Communio 8 (Mùa thu 1981): 233.

35. FC, 68.

36. EG, 16.

37. LF, 22.